Theo bảng xếp hạng các trung tâm Fintech toàn cầu, Việt Nam xếp hạng 51 của thế giới, đây là vị trí đáng khích lệ khi so sánh với các quốc gia có thị trường Fintech còn non trẻ khác. Điểm đáng chú ý, xếp hạng Fintech các thành phố trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương cho thấy, TP.HCM và Hà Nội có vị trí khá tốt trong khu vực khi xếp hạng lần lượt là 27 và 30.

Ông Dũng thừa nhận, sự phát triển của Fintech đã và đang mang lại nhiều thay đổi tích cực đối với hệ thống tài chính Việt Nam, ảnh hưởng mạnh mẽ tới chiến lược phát triển và cách thức kinh doanh của các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính truyền thống. Fintech làm thay đổi kênh phân phối và các sản phẩm dịch vụ tài chính truyền thống, thông qua Internet Banking, Mobile Banking, QR code, ngân hàng số, ví điện tử... Công nghệ sáng tạo không chỉ làm gia tăng cạnh tranh, mà còn đem lại các cơ hội hợp tác giữa các ngân hàng truyền thống và các đơn vị khởi nghiệp Fintech.

“Trong số các công ty Fintech trên thị trường Việt Nam, một số ít phát triển theo hướng độc lập, có thể trở thành đối thủ cạnh tranh với các tổ chức tài chính truyền thống, nhưng đa phần là phát triển theo hướng hợp tác, trở thành đối tác với các tổ chức tài chính truyền thống, phát triển cộng sinh, đôi bên cùng có lợi...”, ông Dũng nhận định.

Báo cáo khảo sát về hệ sinh thái Fintech tại Việt Nam của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng cho thấy, có khoảng 80 - 90% Fintech tại Việt Nam hợp tác với ngân hàng trong quá trình hoạt động. Hợp tác giữa ngân hàng thương mại và công ty Fintech tại Việt Nam diễn ra khá đa dạng, dưới các hình thức như hợp tác cung ứng dịch vụ, cung cấp các giải pháp cho ngân hàng, ngân hàng tài trợ nguồn vốn cho Fintech.

Một số quan hệ hợp tác điển hình trên thị trường có thể đề cập đến đó là VPBank và công ty Fintech Timo, MBBank với Viettel, VietinBank và Opportunity Network, hay Vietcombank với M_Service...

Ông Dũng cho rằng, các công ty khởi nghiệp về Fintech có những ưu thế về đổi mới, sáng tạo và khả năng ứng dụng công nghệ một cách linh hoạt, hiệu quả, đặc biệt là việc ứng dụng những nền tảng công nghệ số tân tiến, như công nghệ chuỗi khối, điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo...

“Tuy nhiên, để tồn tại và phát triển, các công ty Fintech cần tiếp cận nguồn vốn, quy mô mạng lưới, thông tin khách hàng, cũng như sự hỗ trợ, tư vấn về mặt pháp lý của các ngân hàng. Sự hợp tác giữa ngân hàng và công ty Fintech sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên và gia tăng trải nghiệm mới cho khách hàng”, ông Dũng nói.

Trong cuộc đua chuyển đổi số, ngân hàng đã và đang có những chuyển biến tích cực trong việc ứng dụng công nghệ thông tin. Thống kê của NHNN cho thấy, đến nay, có 95% tổ chức tín dụng đã và đang xây dựng, triển khai chiến lược chuyển đổi số. Trong đó, riêng tại 10 ngân hàng thương mại lớn, mức đầu tư cho chuyển đổi số ước tính lên đến 15.000 tỷ đồng mỗi năm; chi phí đầu tư nguồn lực hoạt động chuyển đổi số trung bình chiếm từ 20 - 30% tổng chi phí đầu tư hoạt động.

“Từ rất sớm, Vietcombank luôn xác định công nghệ và số hoá là những yếu tố then chốt, quyết định việc duy trì năng lực cạnh tranh”, ông Dũng nói và cho biết, từ năm 2001, Vietcombank đã tiên phong trong cung ứng dịch vụ số cho khách hàng, bắt đầu với phiên bản Internet Banking đầu tiên cho khách hàng cá nhân và hệ thống VCB-Money cho khách hàng tổ chức. Đến nay, các dịch vụ số của Vietcombank ngày càng được nâng cấp, đa dạng hóa. Số lượng khách hàng cá nhân sử dụng ứng dụng Digibank của Vietcombank tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm gần đây.

Tính riêng trong 11 tháng năm 2021, số lượng khách hàng trên các kênh số tăng 44%, số lượng giao dịch tăng gần 57% và giá trị giao dịch tăng 64%. Mỗi ngày, các kênh số của Vietcombank xử lý thông suốt từ 2,5 - 3,5 triệu giao dịch với giá trị từ 18.000 - 36.000 tỷ đồng. Tỷ lệ giao dịch của khách hàng cá nhân trên các kênh số chiếm 97% tổng số lượng giao dịch.

Dù có nhiều tiến bộ, nhưng theo ông Dũng, chuyển đổi số tại các ngân hàng thương mại nói chung còn nhiều hạn chế, như về nền tảng công nghệ và dữ liệu; về quy mô và năng lực ứng dụng công nghệ 4.0 (điện toán đám mây, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối…); về năng lực phân tích nâng cao và sử dụng dữ liệu, cũng như khả năng tạo ra các mô hình kinh doanh và lợi thế cạnh tranh mới. Ngoài ra, sự thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng và mô hình tổ chức, văn hoá doanh nghiệp chậm thay đổi cũng đang là một rào cản lớn đối với việc chuyển đổi số.

“Đặc biệt, việc hoàn thiện khung khổ pháp lý cho chuyển đổi số còn chậm so với yêu cầu phát triển. Nếu được đầu tư thích đáng về nguồn nhân lực, công nghệ, know-how, chuyển đổi số thành công sẽ mang lại những giá trị to lớn về trải nghiệm khách hàng, sự gắn kết của nhân viên và tất nhiên là hiệu quả tài chính”, ông Dũng nhấn mạnh và tiết lộ, Vietcombank xác định chuyển đổi số là một đột phá chiến lược và đang triển khai với quyết tâm cao với một chương trình hành động chuyển đổi số tổng thể và toàn diện, nhằm mục tiêu đạt mức độ trưởng thành chuyển đổi số trong Top các ngân hàng dẫn đầu ASEAN vào năm 2025, bao gồm hơn 300 sáng kiến với 4 trụ cột: Số hoá (Digital); Dữ liệu (Data); Công nghệ (Technology) và Chuyển đổi (Transformation).

Ông Dũng nhận định, chuyển đổi số là yêu cầu tất yếu, đang mang tới những cơ hội lớn cho các doanh nghiệp nói chung, ngân hàng thương mại nói riêng, tạo ra các mô hình kinh doanh và những giá trị mới chưa từng có. Tuy nhiên, chuyển đổi số cũng là một thách thức trọng yếu đối với các doanh nghiệp, ngân hàng, nên cần có những hướng giải quyết riêng.

Theo đó, Chủ tịch Vietcombank gợi ý, việc trước tiên cần ưu tiên đó là hoàn thiện khung khổ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi số trong ngành ngân hàng, đặc biệt là cơ sở pháp lý cho các hoạt động cho vay trên kênh số, tự động hoá quy trình cho vay; việc ứng dụng các công nghệ 4.0; cơ chế thử nghiệm có kiểm soát.

Đồng thời, thể chế hoá các chính sách khuyến khích đầu tư cho đổi mới sáng tạo, bởi chuyển đổi số gắn liền với đổi mới sáng tạo. Trong khi đó, đổi mới sáng tạo luôn có những rủi ro nhất định, nhưng quy định về đầu tư cho đổi mới sáng tạo hiện nay là rất chặt chẽ và hạn chế.

“Đề nghị sớm thể chế hoá các quy định, chính sách để cho phép các doanh nghiệp nhà nước, trong đó có các ngân hàng thương mại nhà nước đầu tư mạnh mẽ cho nghiên cứu và phát triển (R&D), cho chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo. Thực hiện cơ chế quản lý, đánh giá hiệu quả đầu tư tổng thể thay vì theo từng dự án cụ thể. Chấp nhận rủi ro ở mức độ cho phép để khuyến khích đầu tư vào công nghệ và đổi mới sáng tạo”, ông Dũng nêu quan điểm.

Chủ tịch Vietcombank cũng đề xuất, sớm rà soát sửa đổi Luật Quản lý sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp và Nghị định số 10/2019/NĐ-CP theo hướng thống nhất quản lý theo mục tiêu, tăng giao quyền tự chủ trong kinh doanh, đặc biệt là trong cơ chế thu nhập, chính sách đãi ngộ cho doanh nghiệp nhà nước nói chung và các ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng.

“Có như vậy mới thực sự thúc đẩy chuyển đổi số trong các doanh nghiệp nhà nước, thu hút và giữ chân được nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho việc chuyển đổi số thành công”, ông Dũng nhấn mạnh.