Ảnh Internet

Ảnh Internet

Thị trường hàng hóa tuần từ 10-17/6: Dầu, khí tự nhiên, sắt thép giảm giá mạnh

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 10-17/6, thị trường hàng hóa thế giới chứng kiến giá hầu hết các mặt hàng đều giảm do USD tiếp tục đi lên và dự báo nhu cầu giảm, trong đó dầu, khí tự nhiên, sắt thép giảm giá mạnh

Năng lượng: Dầu và khí tự nhiên cùng giảm giá mạnh, than đi lên

Trong tuần qua, giá dầu giảm mạnh về mức thấp nhất 4 tuần do lo ngại việc tăng lãi suất bởi các ngân hàng trung ương lớn có thể làm chậm nền kinh tế toàn cầu và khiến nhu cầu năng lượng suy giảm.

Ngoài ra, giá dầu còn chịu áp lực giảm bởi USD tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 12/2002 so với giỏ các đồng tiền chủ chốt, khiến dầu trở nên đắt hơn khi mua bằng tiền tệ khác.

Cụ thể, đóng cửa phiên giao dịch ngày 17/6, dầu thô Brent giảm 6,69 USD (-5,6%) về 113,12 USD/thùng, mức giá thấp nhất kể từ ngày 20/5/2022 và là phiên giảm mạnh nhất kể từ đầu tháng 5/2022. Dầu thô Tây Texas (WTI) cũng giảm 8,03 USD (-6,8%) về 109,56 USD/thùng - mức giá thấp nhất kể từ ngày 12/5/2022 và là phiên giảm mạnh nhất kể từ cuối tháng 3/2022.

Tính chung, cả tuần dầu Brent giảm lần đầu tiên sau 5 tuần, trong khi dầu WTI giảm lần đầu tiên sau 8 tuần.

Tương tự, giá khí tự nhiên tại Mỹ cũng giảm xuống mức thấp nhất 7 tuần trong tuần vừa qua do dự báo nhu cầu giảm và dự kiến việc đóng cửa nhà máy xuất khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) Freeport tại bang Texas kéo dài sẽ khiến tồn trữ khí tự nhiên tăng.

Theo đó, giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 7/2022 trên sàn New York giảm 52 US cent (-7%) xuống 6,944 USD/mmBTU - thấp nhất kể từ ngày 28/4/2022 và cả tuần giảm 22%, sau khi tăng 4% trong tuần trước đó. Đây là tuần giảm mạnh nhất kể từ đầu tháng 12/2021.

Ở chiều ngược lại, giá than trong xu hướng đi lên. Cụ thể, giá than Nam Phi tăng lên mức hơn 330 USD/tấn, theo xu hướng của thị trường châu Âu. Nhà sản xuất Thungela của Nam Phi báo cáo sự sụt giảm xuất khẩu than trong nửa đầu năm 2022 xuống còn 6,1 triệu tấn (giảm 1 triệu tấn, tương đương 14% so với cùng kỳ năm ngoái) do năng lực hạn chế của tuyến đường sắt dẫn đến cảng Richards Bay.

Giá than giao ngay 5500 NAR tại Trung Quốc tăng lên 189,5 USD/tấn FOB Qinhuangdao. Đà tăng báo giá than tại thị trường nước này là kết quả của sự phục hồi hoạt động công nghiệp.

Sự sụt giảm trong hoạt động giao dịch của người tiêu dùng châu Á, những khách hàng có cách tiếp cận chờ đợi vì giá cao, đã tác động đến báo giá nguyên liệu của Úc vốn đã giảm xuống dưới mức 380 USD/tấn. Người tiêu dùng Ấn Độ quan tâm nhiều hơn đến nguyên liệu của Nga, giá giảm so với nguyên liệu của Úc.

Chỉ số than 5900 GAR của Indonesia được giao dịch ở mức 193 USD/tấn. Những người tham gia thị trường lưu ý rằng, nhu cầu ngày càng tăng từ các nhà máy điện Trung Quốc đối với than nhập khẩu, khi nước này chủ động tăng nguồn cung cấp cho các nhà máy điện ven biển để tránh lặp lại tình trạng mất điện ở các thành phố lớn.

Chỉ số than luyện kim của Úc ở mức 380 USD/tấn.

Kim loại: Đồng loạt giảm giá

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giảm trong tuần qua do USD đi lên, cùng việc tăng lãi suất từ các ngân hàng trung ương lớn khiến vàng trở nên kém hấp dẫn hơn.

Cụ thể, vàng giao ngay trên sàn LBMA giảm 1% xuống 1.837,59 USD/ounce và vàng kỳ hạn tháng 8/2022 trên sàn New York giảm 0,5% xuống 1.840,6 USD/ounce. Tính chung cả tuần, giá vàng giảm 1,7%.

Tuần qua, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã công bố mức tăng lãi suất lớn nhất kể từ năm 1994, trong khi Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ tăng lãi suất chính sách lần đầu tiên trong 15 năm và Ngân hàng Anh cũng tiếp theo đó.

Ở nhóm kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do lo ngại kéo dài về nhu cầu giảm tại nước tiêu thụ hàng đầu Trung Quốc và suy thoái toàn cầu tiềm ẩn. Ngoài ra, giá đồng chịu áp lực giảm bởi sản lượng đồng tinh chế của Trung Quốc trong tháng 5/2022 tăng 4,7% so với cùng tháng năm ngoái lên 0,91 triệu tấn.

Cụ thể, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1% xuống 8.982 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ tháng 10/2021 và cả tuần giảm 5%.

Trong khi đó, giá nhôm giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 1,3% lên 2,538 USD/tấn, nhưng cả tuần vẫn giảm 5,2%.

Ngược lại, trên sàn Thượng Hải, giá nhôm giao tháng 7/2022 giảm 1,1% xuống 19.825 CNY (tương đương 2.959,66 USD)/tấn.

Giá quặng sắt tại Đại Liên giảm phiên thứ 6 liên tiếp và có tuần giảm mạnh nhất trong 4 tháng qua do các nhà máy thép Trung Quốc tìm cách giảm sản lượng, trong bối cảnh lợi nhuận giảm và triển vọng nhu cầu ảm đạm.

Cụ thể, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2022 giảm 5,9% xuống 821,5 CNY (122,64 USD)/tấn, sau khi chạm 815,5 CNY/tấn - thấp nhất kể từ ngày 26/5/2022.

Trên sàn Singapore, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2022 giảm 5,4% xuống 121,15 USD/tấn, cũng là phiên giảm thứ 7 liên tiếp.

Giá quặng sắt 62% Fe giao ngay sang Trung Quốc giảm xuống 132 USD/tấn - thấp nhất 3 tuần, Công ty Tư vấn SteelHome cho biết.

Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 4,3%; thép cuộn cán nóng giảm 4,2%; thép không gỉ giảm 1,3%. Tính cả tuần, 2 loại thép cây và thép cuộn cán nóng đều có tuần giảm.

Nông sản: Tiếp tục đi xuống

Giá các mặt hàng nông sản chính tại Chicago đồng loạt giảm trong tuần qua do vụ thu hoạch bội thu và USD tăng giá đã hạn chế sản lượng xuất khẩu.

Cụ thể, giá lúa mì giảm 44 US cent xuống 10,34-1/4 USD/bushel và cả tuần giảm 3,5%.

Giá đậu tương giảm 7-1/2 US cent xuống 17,02 USD/bushel và cả tuần giảm 2,5% - mạnh nhất kể từ tuần kết thúc ngày 6/5/2022.

Giá ngô cũng giảm 3-3/4 US cent xuống 7,84-1/2 USD/bushel, sau khi đạt mức 8 USD/bushel - cao nhất kể từ ngày 18/5/2022 trong đầu phiên.

Nguyên liệu công nghiệp: Cà phê tăng giá; cao su, đường và dầu cọ cùng giảm

Giá đường thô nhích nhẹ khi Ấn Độ có khả năng áp đặt mức trần đối với xuất khẩu đường trong niên vụ tới và sau khi công ty dầu Petrobras Brazil nâng giá xăng - một động thái có thể ảnh hưởng đến sản lượng đường.

Cụ thể, giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2022 trên sàn ICE tăng 0,02 US cent (+0,1%) lên 18,6 US cent/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 1 tuần (18,96 US cent/lb) trong đầu phiên giao dịch. Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2022 trên sàn London tăng 2,6 USD (+0,5%) lên 561,4 USD/tấn.

Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2022 trên sàn ICE giảm 4,4 US cent (-1,9%) xuống 2,274 USD/lb. Đồng thời, giá cà phê robusta cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 25 USD (-1,2%) xuống 2.079 USD/tấn.

Giá cao su tại Nhật Bản được thúc đẩy bởi kỳ vọng nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu Trung Quốc hồi phục, khi nước này tuyên bố thành công trong việc ngăn chặn dịch Covid-19 bùng phát, song thị trường chứng khoán Tokyo và giá nguyên liệu suy yếu đã hạn chế đà tăng.

Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tháng 11/2022 trên sàn Osaka tăng 0,9 JPY (+0,4%) lên 255 JPY (1,9 USD)/kg. Tuy nhiên, cả tuần vẫn giảm 3,4%.

Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2022 trên sàn Thượng Hải giảm 80 CNY xuống 12.770 CNY (1.906,14 USD)/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 10/5/2022 (12.625 CNY/tấn) trong đầu phiên giao dịch.

Giá dầu cọ tại Malaysia giảm tuần thứ 2 liên tiếp do chịu áp lực bởi xuất khẩu của Indonesia tăng mạnh và kỳ vọng sản lượng được cải thiện.

Cụ thể, giá dầu cọ kỳ hạn tháng 9/2022 trên sàn Bursa Malaysia giảm 0,31% xuống 5.456 ringgit (1.240 USD)/tấn, trong phiên có lúc giảm 2,26% - mức giảm mạnh nhất kể từ ngày 16/2/2022. Tính chung cả tuần, giá dầu cọ giảm 7,8% sau khi giảm 8,3% trong tuần trước đó.

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).
Tin bài liên quan