Bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam

Bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam

Ngân hàng Thế giới: Việt Nam cần nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế

0:00 / 0:00
0:00

(ĐTCK) Tại buổi công bố Báo cáo Điểm lại - Cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam, ấn phẩm tháng 12 năm 2020 chiều nay (ngày 21/12), bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam cho rằng, trước thông tin bị gắn mác thao túng tiền tệ, Chính phủ Việt Nam cần nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong thời gian tới thông qua việc cân nhắc giá cả hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài.

Còn vị chuyên gia Kinh tế trưởng WB tại Việt Nam ông Jacques Morisset nêu quan điểm: “Việt Nam cần quan tâm nhiều hơn về chính sách tỷ giá hối đoái. Đồng thời, nghĩ đến việc đa dạng hóa nhiều điểm đến đầu tư, thương mại. Điều này sẽ giúp Việt Nam là một trong những điểm đến thu hút đầu tư nước ngoài”.

Tự nhận mình không phải là chuyên gia về vấn đề này tuy nhiên, ông Đôn Tuấn Phong, Ủy viên Thường trực Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, một trong những diễn giả tại buổi công bố cho rằng, cần nhìn nhận trong bối cảnh 25 năm qua sau khi bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Mỹ, quan hệ thương mại giữa hai nước đã tăng lên rất nhanh.

“Nhìn vào cơ cấu xuất nhập khẩu của hai nước thì thấy rằng mang tính bổ sung rất rõ, không phải cạnh tranh. Nhiều sản phẩm của Việt Nam vào thị trường Mỹ giúp doanh nghiệp Mỹ được lợi nhiều hơn. Đặc biệt, bối cảnh dịch Covid-19, năng lực cạnh tranh được nhìn nhận khác trong điều kiện bình thường”, ông Phong nói.

Cũng theo ông Phong, Việt Nam là một điểm đến đầu tư nước ngoài lớn, trong bối cảnh chính sách không dùng ngoại tệ để thanh toán thì đây cũng là yếu tố để hai nước xem xét kỹ hơn để đưa ra một kết luận nào đó.

Nhận định về kinh tế vĩ mô, dù phải đối mặt với cú sốc lớn nhất toàn cầu trong nhiều thập kỷ qua, Ngân hàng Thế giới dự kiến năm 2020 Việt Nam tăng trưởng gần 3% trong bối cảnh kinh tế thế giới dự kiến suy giảm ít nhất 4%.

Ngân hàng Thế giới cho rằng, Việt Nam có kết quả như trên là nhờ khả năng chống chịu của cả khu vực kinh tế trong nước và kinh tế đối ngoại. Không những kiềm chế được đại dịch bằng những biện pháp sớm, quyết liệt và sáng tạo, Chính phủ còn sử dụng các chính sách tài khóa và tiền tệ để tháo gỡ khó khăn cho khu vực tư nhân và thúc đẩy phục hồi. Chẳng hạn, chi tiêu công bắt đầu tăng trở lại sau ba năm thắt chặt tài khóa. Trong 9 tháng đầu năm 2020, giải ngân đầu tư công đã tăng đến 40% so với cùng kỳ năm trước.

Được biết, khu vực kinh tế đối ngoại - động lực tăng trưởng kinh tế chính của Việt Nam trong thập kỷ qua - đạt kết quả rất tốt kể từ khi khủng hoảng COVID-19 bắt đầu. Việt Nam dự kiến sẽ đạt mức xuất khẩu hàng hóa đạt thặng dư lớn nhất từ trước đến nay đồng thời dự trữ ngoại hối tăng.

Dòng vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục đổ vào Việt Nam kết hợp với xuất khẩu hàng hóa tăng mạnh đã bù đắp cho thất thu về ngoại tệ do hoạt động du lịch suy giảm và nguồn kiều hối bị thu hẹp. Báo cáo cho biết các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục đầu tư và/hoặc đang dịch chuyển các hoạt động sản xuất sang Việt Nam do quốc gia này đã quản lý tốt đại dịch.

Trong thời gian tới, triển vọng của Việt Nam được cho là tích cực khi nền kinh tế được dự báo tăng trưởng ở mức khoảng 6,8% trong năm 2021 và sẽ ổn định quanh mức 6,5% các năm tiếp theo. Dự báo này dựa trên giả định rằng khủng hoảng COVID-19 sẽ dần được kiểm soát, khi vắc-xin COVID-19 chứng minh được tính hiệu quả.

Mặc dù vậy, quy mô và thời gian kéo dài của đại dịch cũng như những tác động kinh tế của nó khó có thể dự báo, và do đó không thể bỏ qua một kịch bản tăng trưởng thấp hơn hơn. Báo cáo nhấn mạnh rằng, tại Việt Nam vẫn còn tiềm tàng những rủi ro tài khóa, tài chính, và xã hội, đòi hỏi các cấp có thẩm quyền cần quan tâm hơn nữa.

Bên cạnh phân tích về những xu hướng gần đây của nền kinh tế Việt Nam, ấn phẩm lần này với tiêu đề “Từ COVID-19 đến biến đổi khí hậu: Làm thế nào để Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong phục hồi xanh”, đặt câu hỏi tại sao Việt Nam lại chưa xử lý những thách thức về khí hậu và môi trường hiệu quả như với khủng hoảng COVID-19, tuy được cho là có khác biệt nhưng thực ra lại có nhiều điểm tương đồng. Cũng giống như đại dịch, những thảm họa về khí hậu và môi trường cũng gây ra thiệt hại rất lớn về người và của và đều cho thấy cuộc sống con người rất mong manh.

Bà Carolyn Turk cho biết: “Việt Nam đang đứng trước bước ngoặt để phục hồi sau COVID-19. Quốc gia này đang có cơ hội để chọn con đường phát triển xanh hơn, thông minh hơn và bao trùm hơn, và nhờ đó trở nên vững vàng hơn trước những cú sốc trong tương lai do cả đại dịch và hay thảm họa thiên nhiên. Việt Nam phải xử lý những thách thức về khí hậu và môi trường với tinh thần khẩn trương như đã làm với COVID-19 vì cái giá phải trả từ việc không hành động ngày càng tăng và khó có thể đảo ngược. Đợt bão lụt lịch sử tại miền Trung vừa qua và ô nhiễm không khí tăng lên ở các thành phố lớn trong nước là minh chứng rõ rệt về sự mong manh dễ tổn thương vừa được đề cập”.

Ông Jacques Morisset cũng đề cập đến hai bài học rút ra qua quản lý thành công khủng hoảng COVID-19 có thể được áp dụng để giải quyết tốt hơn các vấn đề môi trường. Thứ nhất, cách tốt nhất để đối phó với cú sốc bên ngoài là phải chuẩn bị từ trước, đồng thời phải hành động sớm và kiên quyết.

Thứ hai, ngoài tầm nhìn và năng lực, việc tạo điều kiện thử nghiệm cách làm mới sáng tạo cũng góp phần thay đổi hành vi của cá nhân và tập thể-đây là nền tảng cho các chiến lược ứng phó với những nguy cơ về y tế và khí hậu.

Ông Jacques Morisset nhấn mạnh: “Ngoài củ cà rốt thì cần cây gậy để người dân thay đổi hành vi và trong thách thức thường sẽ có cơ hội”.

Báo cáo cũng bàn chi tiết về nhóm chính sách có thể giúp Việt Nam ổn định nền kinh tế, giảm nhu cầu đầu tư trong thời kỳ thắt lưng buộc bụng sắp tới, đồng thời hoàn thành các chỉ tiêu về khí hậu trong cả ngắn hạn và dài hạn.

Báo cáo cho rằng Việt Nam có thể đạt được khát vọng trở thành nền kinh tế thu nhập cao trước năm 2045 hay không không chỉ dựa vào khả năng Việt Nam vượt qua khủng hoảng COVID-19 thành công mà còn dựa vào sự hiệu quả trong quản lý các nguồn tài nguyên và rủi ro khí hậu. Rốt cuộc, mục tiêu phát triển kinh tế không chỉ để làm ra them của cải mà còn là không phá hủy những gì đang có.

Tin bài liên quan