Ngày 2/3/2010, Trung tâm dịch vụ viễn thông khu vực 1 (VNP1) thuộc Công ty dịch vụ viễn thông (VNP), địa chỉ tại đội 8, thôn Đình Thôn, xã Mỹ Đình, huyện Từ Liêm, Hà Nội, do ông Ngô Quang Trung, Phó giám đốc làm đại diện và Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại đầu tư Hồng Quang (Công ty Hồng Quang), địa chỉ tại số 111, ngõ 171, đường Nguyễn Ngọc Vũ, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội, do bà Phan Thị Hồng, Giám đốc ký kết Hợp đồng đại lý cung cấp dịch vụ TTDĐ số 04/VNP1-TĐL-HQG.
Theo đó, VNP1 giao cho Công ty Hồng Quang làm đại lý phân phối và bán tại Việt Nam các sản phẩm thẻ trả trước; mệnh giá nạp tiền qua SMS (E-Load); thẻ SIM VinaCard, VinaDaily, VinaText, E-Load; bộ trọn gói ban đầu, bộ hòa mạng máy đầu cuối có kèm tài khoản các sản phẩm khác và thiết bị USB Modem.
Ngày 29/11/2010, hai bên ký phụ lục gia hạn thời hạn hợp đồng nói trên từ ngày 1/1/2011 đến ngày 30/6/2011. Và ngày 18/10/2010, giữa VNP1 và hai đại lý là Công ty Thanh Tâm và Công ty Hồng Quang có ký kết bản thỏa thuận bán hàng trên cơ sở các hợp đồng đã ký kết. Trong đó, có thỏa thuận về chính sách bán hàng: công ty cứ bán được 1 tỷ đồng tiền thẻ, được quyền mua 2.000 Kit.
Thực hiện thỏa thuận, đại lý Hồng Quang có yêu cầu và VNP1 cấp hàng là các loại thẻ trả trước: mệnh giá nạp tiền qua SMS với tổng trị giá là 1.820 tỷ đồng. Sau khi trừ các khoản chiết khấu, Công ty Hồng Quang phải thanh toán cho VNP1 số tiền 1.697.475.600.000 đồng. Công ty Hồng Quang đã thanh toán cho VNP1 là 1.026.826.600.000 đồng và trả lại số hàng là 622.464.125.000 đồng. Số tiền thẻ còn phải thanh toán là 48.184.875.000 đồng. Nhưng phía VNP1 chưa bán một bộ Kit nào cho Công ty Hồng Quang dù công ty đã nhiều lần yêu cầu.
Từ ngày 18 đến ngày 20/10/2010, Agribank Hà Nội đã phát hành các thư bảo lãnh thanh toán cho Công ty Hồng Quang mua hàng tại VNP1 với tổng số tiền là 1.048.432.284.000 đồng. Mâu thuẫn phát sinh khi VNP1 cho rằng: đến hạn, Công ty Hồng Quang không thanh toán và hết thời hạn bảo lãnh, Ngân hàng cũng không thực hiện. Do đó, VNP1 kiện Agribank, yêu cầu thanh toán số tiền 44.184.875.000 đồng và tiền lãi đến ngày 29/2 là 6.426.361.000 đồng.
Theo Agribank, Thư bảo lãnh thanh toán số 1500VSB201220102 do Agribank Hà Nội phát hành ngày 20/12/2010, thể hiện: “bảo lãnh này bảo đảm nghĩa vụ thanh toán cho VNP1 theo Hợp đồng số 04/VNP1-TĐL-HQG ngày 2/3/2010 và phụ lục hợp đồng ngày 29/11/2010 giữa Công ty Hồng Quang và VNP1. Số tiền bảo lãnh là 130.620.000.000 đồng. Agribank Hà Nội cam kết trả cho VNP1 số tiền nêu trên khi hết hạn thanh toán của hợp đồng, ngay sau khi nhận được văn bản của VNP1 thể hiện Công ty Hồng Quang chưa thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng nói trên”.
Về phía Công ty Hồng Quang cho rằng, số tiền chiết khấu bổ sung là 8.678.251.973 đồng theo bản thanh quyết toán cùng với 2.691.489 bộ Kit VNP1 vẫn nợ công ty. Do đó, Công ty Hồng Quang không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của VNPT. Bởi, giữa Công ty Hồng Quang và VNP1 đã thống nhất trong bản thanh quyết toán ngày 1/6/2011, rằng việc thanh toán tiền hàng của công ty và việc trả SIM của VNP1 phải được thực hiện cùng nhau, và VNP1 phải ra chương trình SIM đồng bộ trên thị trường.
Tại phiên sơ thẩm, VNPT bổ sung việc tự nguyện đối trừ số tiền chiết khấu bổ sung cho Công ty Hồng Quang số tiền 3.544.435.000 đồng và cho công ty được mua Kit theo doanh số mua hàng thực tế tại thời điểm đó và giữ nguyên yêu cầu đòi phía Ngân hàng phải chịu số tiền 6.562.756.193 đồng tiền lãi, do chậm thanh toán, tính đến ngày 24/4.
Hội đồng xét xử tuyên chấp nhận đơn khởi kiện của VNPT. Xác nhận Công ty Hồng Quang còn nợ VNPT số tiền 48.184.875.000 đồng. Ghi nhận sự tự nguyện của VNPT đồng ý thanh toán cho Công ty Hồng Quang số tiền chiết khấu bổ sung là 3.544.435.000 đồng. Đối trừ, công ty còn nợ VNPT1 44.640.440.000 đồng. Ghi nhận sự tự nguyện của VNPT đồng ý cho Công ty Hồng Quang mua Kit theo Hợp đồng 04 và bản thỏa thuận bán hàng số 01/2010/VNP-TĐL trên doanh số bán hàng thời điểm đó. Tòa cũng buộc Agribank thanh toán cho VNPT số tiền 44.640.440.000 đồng và 6.562.756.193.000 đồng tiền lãi. Tổng cộng 51.203.196.193 đồng.
Cho rằng tòa xử như vậy là chưa công bằng, chưa đánh giá đầy đủ các chứng cứ của vụ án; gây thiệt hại nghiêm trọng cho công ty và các quyền công ty được pháp luật công nhận, đại diện Công ty Hồng Quang, là đơn vị có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn kháng án, với các lý do:
Thứ nhất: tòa sơ thẩm xác định số tiền chưa thanh toán của Công ty Hồng Quang với VNPT là 48.184.875.000 đồng. Tuy nhiên, theo Biên bản thanh quyết toán công nợ được hai bên thống nhất ngày 1-6-2011, số tiền chỉ là 39.506.623.027 đồng. Và chiết khấu công ty được hưởng theo biên bản ngày 1-6-2011 là 8.678.251.973 đồng.
Thứ hai: tòa xác định nghĩa vụ bán trả Kit và thanh toán tiền chiết khấu bổ sung của VNPT là sự “tự nguyện”, là không đúng bản chất. Bởi, theo bản thỏa thuận, Hợp đồng đã ký giữa hai bên, hai điều trên là quyền lợi của công ty và là nghĩa vụ, trách nhiệm của VNPT. “Không một lý do nào lại tước bỏ quyền lợi này của công ty chúng tôi và miễn trừ trách nhiệm, nghĩa vụ của VNPT Việt
Trước đó, vào các ngày 11/6/2011, Công ty Hồng Quang có Công văn số 1003HQ/2011 gửi VNPT, VNP1 và VNP yêu cầu: “xin mua 2.794.660 SIM Alo chia làm nhiều lần” nhưng không được chấp thuận.
Do đó, ngày 19/7/2011, Công ty Hồng Quang có Công văn số 1058/HQ/2011 “Đề nghị VNP1 ra chương trình SIM trên thị trường (SIM thường) để công ty bán được hàng và đặt mua dần số lượng 2.794.660 bộ Kit”, nhưng công ty không có phản hồi nào. “Việc Agribank chưa phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, bởi Công ty Hồng Quang và VNPT đã thỏa thuận việc thanh toán thực hiện đồng thời với việc trả SIM và ra chương trình đồng bộ trên thị trường”, Công ty Hồng Quang nhấn mạnh lý do kháng án.