Trong bối cảnh nhu cầu chăm sóc sức khỏe đang gia tăng nhanh và chi tiêu y tế tăng mạnh, Bidiphar đã khép lại 9 tháng đầu năm 2025 với doanh thu thuần đạt 1.355 tỷ đồng, tăng 8% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, mảng thuốc sản xuất là động lực chính, mang về 1.308 tỷ đồng doanh thu. Đáng chú ý, kênh bệnh viện đạt 900 tỷ đồng, tăng 13%; trong khi kênh nhà thuốc tăng nhẹ lên 408 tỷ đồng. Theo đó, lợi nhuận trước thuế đạt 274 tỷ đồng và sau thuế đạt 231 tỷ đồng, đồng loạt tăng 8% so với cùng kỳ.
So với kế hoạch doanh thu cả năm ở mức 2.000 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế ở mức 335 tỷ đồng, Bidiphar đã thực hiện được 68% mục tiêu doanh thu và 82% mục tiêu lợi nhuận sau 9 tháng.
Triển vọng của Bidiphar tiếp tục được củng cố khi SSI Research dự báo Bidiphar sẽ mang về 331 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế trong năm nay, tăng 16% so với năm trước. Sang năm 2026, con số lợi nhuận sau thuế dự phóng sẽ đạt 348 tỷ đồng, tăng 9%.
Trên thị trường dược phẩm hiện nay, Bidiphar có nền tảng quy mô lớn mạnh với 15 dây chuyền sản xuất hiện đại, gần 400 sản phẩm thuốc đang lưu hành, 16 chi nhánh trên cả nước và 2 công ty thành viên 100% vốn. Nhưng điều làm nên vị thế khác biệt của Công ty không chỉ nằm ở quy mô, mà ở năng lực nghiên cứu phát triển (R&D) nổi trội - yếu tố giúp doanh nghiệp trở thành một trong những đơn vị đi đầu trong nghiên cứu và phát triển dược phẩm tại Việt Nam.
Với mức đầu tư cho R&D bình quân 15 - 20 tỷ đồng/năm, cùng đội ngũ nhân sự gần 1.300 người, Bidiphar có khoảng 50 đề xuất sản phẩm mới được nghiên cứu mỗi năm, 30 - 40 sản phẩm được thương mại hóa, trong đó nhiều thuốc ung thư, kháng sinh thế hệ mới, dịch lọc thận nhân tạo - những nhóm điều trị có giá trị chiến lược. Tính riêng giai đoạn 2021 - 2024, gần 500 sáng kiến ra đời, trong đó hơn 50 sáng kiến quan trọng đã mang lại lợi ích cho Bidiphar trên 10 tỷ đồng/năm.
Một trong những bước ngoặt là năm 2024, Bidiphar đã hoàn thiện dự án nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ để sản xuất một số thuốc dùng điều trị ung thư, gồm 5 đề tài nghiên cứu và 1 dự án sản xuất thử nghiệm. Đây là những “tấm hộ chiếu công nghệ” giúp Bidiphar khẳng định vị thế số 1 thị phần thuốc ung thư sản xuất trong nước.
Song song với đó, Bidiphar cũng ghi dấu thêm một thành tựu nổi bật khi hoàn thiện quy trình sản xuất thuốc viên Indapamid 1,5mg và Felodipin 5mg giải phóng kéo dài, được Bộ Khoa học và Công nghệ công nhận kết quả cấp quốc gia. Thành công này không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn đánh dấu việc Bidiphar làm chủ công nghệ phóng thích chậm - kỹ thuật vốn chỉ được triển khai bởi các hãng dược lớn trên thế giới.
Không dừng lại ở thuốc hóa dược, Bidiphar còn hướng về nguồn tài nguyên bản địa. Các đề tài nghiên cứu về chè dây, ba kích, hà thủ ô đỏ, đảng sâm theo tiêu chuẩn GACP-WHO đã biến những cây thuốc dân gian thành sản phẩm đạt chuẩn quốc tế. Đến nay, Công ty đã được chứng nhận GACP-WHO cho 8 loại dược liệu quý - nền tảng để xây dựng vùng nguyên liệu bền vững, gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn.
Thầy thuốc Nhân dân Phạm Thị Thanh Hương, Tổng giám đốc Bidiphar khẳng định, những thành quả hôm nay chỉ là điểm tựa cho một hành trình dài phía trước. Trong tầm nhìn 3 - 5 năm tới, Công ty đặt ra mục tiêu lọt Top 3 doanh nghiệp sản xuất dược uy tín tại Việt Nam, doanh thu hàng sản xuất đạt trên 3.000 tỷ đồng, giữ vững vị thế dẫn đầu thị trường thuốc ung thư; đồng thời, mở rộng xuất khẩu sang châu Âu và Nhật Bản.
Với những kết quả hiện nay, SSI Research duy trì quan điểm tích cực đối với DBD, nhờ danh mục sản phẩm tốt, giá cả cạnh tranh so với thuốc nhập khẩu và tăng trưởng thị trường ETC cao hơn trung bình ngành. Trong trung và dài hạn, các nhà máy mới sẽ đảm bảo năng lực sản xuất, mở rộng danh mục sản phẩm và mang lại lợi ích về thuế (miễn thuế 4 năm, sau đó giảm 50% trong 9 năm).
Đáng chú ý, DBD nằm trong số ít công ty dược phẩm uy tín tại Việt Nam hiện chưa có đối tác chiến lược nước ngoài, theo đó, Ban lãnh đạo đang tìm kiếm đối tác chiến lược phù hợp để thực hiện chào bán riêng lẻ 24,91% cổ phần. Số tiền thu được sẽ dùng cho việc đầu tư dự án nhà máy thuốc vô trùng thể tích nhỏ và nhà máy sản xuất OSD non-betalactam.