Lạm phát đang tiến gần tới mức nguy hiểm nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Ảnh: Đức Thanh

Lạm phát đang tiến gần tới mức nguy hiểm nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Ảnh: Đức Thanh

Lạm phát đang tiến gần đến mức nguy hiểm

(ĐTCK-online) Thông tin trên được ông Ayumi Konishi, Giám đốc Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đưa ra tại cuộc họp báo công bố báo cáo “Triển vọng phát triển châu Á 2007” sáng 17/9. ADB cho biết mức lạm phát của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực và dự kiến sẽ duy trì 7,8% năm 2007.

Nguyên nhân dẫn đến lạm phát cao của Việt Nam là căn cứ vào rổ hàng hoá tính CPI, trong đó thực phẩm là nhân tố chính đóng góp vào mức tăng CPI, chiếm 42,8%. Điểm đặc biệt ở chỗ mức tăng giá lương thực, thực phẩm của Việt Nam không ổn định và cao hơn các nước khác, trong khi giá các mặt hàng ngoài thực phẩm như cước vận chuyển và viễn thông  giảm thì giá nhà ở và vật liệu xây dựng lại tăng lên

3 nhân tố tác động mạnh tới tình trạng lạm phát ở Việt Nam được các chuyên gia ADB nhấn mạnh gồm nhu cầu tiêu dùng đang tăng nhanh nhờ lượng kiều hối chuyển về nhiều, thu nhập của lao động, nhất là lao động có tay nghề được cải thiện, tổng phương tiện thanh toán cũng tăng lên mạnh mẽ do nguồn vốn FDI, FII và lượng tiền kiều hối tăng. Luồng vốn vào Việt Nam trong 7 tháng đầu năm là khoảng 7 tỷ USD và cần một lượng tiền tương ứng VND bơm ra lưu thông. Bên cạnh đó, nhu cầu hàng hóa dịch vụ về nhà ở, xây dựng tăng lên cũng khiến giá cả các mặt hàng này tăng theo.Trong khi đó, nguồn cung hàng hóa lại chịu những "cú sốc" như cúm gia cầm, dịch bệnh trên đàn lợn khiến giá thực phẩm tăng lên. Biến động giá cả quốc tế và quá trình tự do hóa giá cả theo thị trường trong quá trình hội nhập kinh tế của VN cũng tác động đến giá nhiều mặt hàng, chẳng hạn, giá điện tăng tăng 7%, than tăng 20%, nhiên liệu tăng 7,8%...

Lạm phát của Việt Nam ở mức cao nhưng Chính phủ đã áp dụng chính sách tiền tệ và thuế, theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã tăng phát hành trái phiếu để hạn chế tăng quá mức tổng phương tiện thanh toán, tăng dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10% đối với tiền gửi ngắn hạn và giảm thuế quan. “Tốc độ lạm phát hiện đang tiến gần đến mức nguy hiểm và Chính phủ cần phải cẩn trọng đưa ra các biện pháp đối phó với vấn đề này. Hiện chỉ số này vẫn trong tầm kiểm soát của Chính phủ và dự báo lạm phát trong cả năm nay sẽ ở mức 7,8% và sẽ giảm xuống 6,8% năm 2008”, ông Konishi nhấn mạnh.

Tác động tăng trưởng kinh tế?

Trong bối cảnh lạm phát tăng cao, thị trường chứng khoán và tín dụng quốc tế biến động, ADB vẫn lạc quan dự báo trong hai quý cuối năm 2007 tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam tiếp tục duy trì và có thể tăng vào cuối năm. Dự báo,  tăng trưởng kinh tế cả năm sẽ đạt mức 8,3% năm 2007 và 8,5% năm 2008.


Mối quan hệ giữa kiểm soát lạm phát và duy trì tăng trưởng kinh tế được các chuyên gia phân tích dưới nhiều góc độ với đòi hỏi những động thái hết sức thận trọng của cơ quan quản lý. Một loạt
chính sách đã và đang được áp dụng như giảm bội chi ngân sách, tăng cường phát hành trái phiếu Chính phủ và đẩy mạnh tốc độ giải ngân các dự án đầu tư, thắt chặt tiền tệ, ổn định tỷ giá và lãi suất, giảm thuế nhập khẩu, tăng cường xuất khẩu... Nếu không được thực thi tốt những chính sách đó có thể gây tác động ngược lại với tăng trưởng kinh tế và lạm phát khó duy trì được mục tiêu đã đề ra. Đơn cử như việc tăng cường phát hành trái phiếu Chính phủ và đẩy mạnh giải ngân các dự án đầu tư sẽ dẫn đến mức thâm hụt ngân sách tăng, thắt chặt chính sách tiền tệ dù bằng các nghiệp vụ thị trường mở hay nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc khiến lãi suất tăng lên.


Trong số các giải pháp kiểm soát lạm phát các chuyên gia đặc biệt quan tâm tới liệu pháp giảm thuế nhập khẩu. Ở một góc độ nào đó giảm thuế sẽ khiến nhà nước thất thu trong khi góp phần làm tăng nhập siêu vì hàng hóa nước ngoài rẻ đi so với hàng trong nước, dẫn tới tăng nhập khẩu và giảm xuất khẩu. Tuy nhiên, giảm thuế nếu được sử dụng hữu hiệu sẽ buộc doanh nghiệp trong nước tìm cách nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trước làn sóng hàng ngoại nhập và tạo ra yếu tố tăng trưởng bền vững. Thị trường ôtô là một minh chứng, đã có nhiều tiếng nói cho rằng, nếu cơ quan ban hành chính sách thuế mạnh tay cắt giảm thuế nhập khẩu ôtô nguyên chiếc thì bản thân nhà sản xuất nội sẽ phải giảm giá và cải tiến chất lượng sản phẩm thay vì Nhà nước phải thân chinh “vận động” doanh nghiệp giảm giá bán. Hay việc dùng biện pháp hành chính như kiểm tra chi phí sản xuất, hạn chế việc tăng giá của các doanh nghiệp cũng khó có thể đem lại hiệu quả như mong đợi.

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu