Lạm phát Mỹ tiếp tục lập đỉnh, nhà đầu tư e ngại động thái quyết liệt của Fed

Lạm phát Mỹ tiếp tục lập đỉnh, nhà đầu tư e ngại động thái quyết liệt của Fed

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Tỷ lệ đặt cược trên CMEGroup về xác suất Fed tăng lãi suất thêm 1 điểm phần trăm tại cuộc họp tháng 7 lên đến 78%, cũng có kịch bản tăng 0,75 điểm phần trăm. Có nghĩa rằng, có xác suất cao Fed sẽ tăng lãi suất ít nhất là 0,75 điểm phần trăm.

Đây là thông tin được ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc Khối Nghiên cứu và Phát triển sản phẩm khách hàng cá nhân CTCK Yuanta Việt Nam chia sẻ trong chương trình Talkshow Chọn danh mục kỳ 12 với chủ đề “Khơi dòng vốn sản xuất kinh doanh” do Báo Đầu tư tổ chức chiều 14/7/2022.

Kỳ vọng lạm phát tạo đỉnh

Thông tin mới nhất, CPI tháng 6 của Mỹ tăng 9,1% so với cùng kỳ năm 202, cao hơn dự báo 8,8% trước đó. Đây cũng là con số lạm phát cao kỷ lục của Mỹ trong vòng 40 năm qua.

Ngay khi mở đầu chương trình, nội dung được nhà đầu tư quan tâm nhất chính là diễn biến chứng khoán Mỹ giảm điểm vào ngày thứ Tư (13/7) sau khi dữ liệu cho thấy lạm phát tháng 6 tại Mỹ đạt mức cao nhất kể từ năm 1981, làm gia tăng lo ngại rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ quyết liệt hơn trong cuộc chiến kiềm chế lạm phát trong tháng 7.

Ông Minh cho rằng, với số liệu lạm phát tháng 6 như trên và đã có chuỗi tăng trước đó, rõ ràng, áp lực Fed thắt chặt chính sách tiền tệ, cụ thể là tăng lãi suất, có thể mạnh hơn nữa trong thời gian tới.

Nhìn lại lịch sử thị trường Mỹ từ năm 1995 tới nay, mối tương quan về tỷ lệ lạm phát và giá cả hàng hóa, cũng như diễn biến thị trường chứng khoán Mỹ cho thấy, có mối tương quan nhau. Vì công thức tính CPI vẫn xuất phát từ giá hàng hoá, mà trong thời gian qua, giá hàng hoá hầu hết tăng nóng đã khiến lạm phát tăng theo. Điều đặc biệt, trong năm 2022, tốc độ tăng CPI của Mỹ vượt trội và mạnh hơn so với tốc độ tăng giá hàng hoá. Trong khi thông thường, giá hàng hoá sẽ tăng mạnh hơn so với tốc độ tăng chỉ số CPI.

Theo ông Minh, một phần nguyên nhân là ngoài giá cả hàng hoá cơ bản, dầu, thì còn đến từ các giá dịch vụ cũng ghi nhận tăng. Cuối năm 2021, có thấy rõ các đợt tăng giá dịch vụ, đặc biệt là chi phí logistic rất cao. Tổng hoà các yếu tố này ảnh hưởng đến lạm phát Mỹ tháng 6 vẫn ở mức cao.

Trong phiên giao dịch tối 13/7, phản ứng trên thị trường Mỹ tương đối nhẹ nhàng với thông tin này, vì có thể thị trường đã đối mặt với lạm phát cao vài tháng nay và theo đó, phản ánh tương tự như thời gian qua. Và tuần đầu tháng 7 đang có dấu hiệu giá hàng hóa hạ nhiệt, có dấu hiệu tạo đỉnh.

Theo ông Minh, mỗi khi giá hàng hóa tạo đỉnh thì 1 tháng sau chỉ số lạm phát có thể tạo đỉnh trong tháng kế tiếp. Điều đó có nghĩa, thị trường cũng đang kỳ vọng lạm phát trong tháng 7 có thể hạ nhiệt.

Việc Fed thắt chặt trong các cuộc họp tới (sau cuộc họp tháng 7) có thể nhẹ nhàng hơn. Còn riêng tháng 7, theo dự báo đặt cược của CME, có tới 78% Fed tăng 1 điểm phần trăm trong lần này, cũng có kịch bản tăng 0,75 điểm phần trăm. Vậy tức xác suất cao thì lãi suất tăng ít nhất 0,75 điểm phần trăm.

Ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc Khối Nghiên cứu và Phát triển sản phẩm khách hàng cá nhân CTCK Yuanta Việt Nam - Ảnh: Dũng Minh
Ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc Khối Nghiên cứu và Phát triển sản phẩm khách hàng cá nhân CTCK Yuanta Việt Nam - Ảnh: Dũng Minh

Ông Minh cho rằng, những yếu tố này đang phản ánh trong đà giảm vừa qua, chỉ số Dow Jones đã giảm hơn 20% từ tháng 4 đến nay, còn hôm 13/7 thì diễn biến thị trường Mỹ thu hẹp về cuối phiên.

Với thị trường chứng khoán Việt Nam phiên 14/7 có diễn biến tương tự, đầu phiên phản ứng tiêu cực, cuối phiên thì tích cực, nhóm chứng quay lại sắc xanh và nhiều nhóm khác cũng đã có định giá thấp.

Tác động tới thị trường chứng khoán?

Ông Minh nhận định, Fed tăng lãi suất đã tác động tới các thị trường chứng khoán mới nổi và cận biên, khiến các thị trường này giảm mạnh, lượng tiền rút khỏi các thị trường châu Á khá lớn (do lo ngại Fed tăng lãi suất và ảnh hưởng tỷ giá ). Có thể thấy, việc tăng lãi suất của Fed có khả năng vẫn ảnh hưởng tới thị trường, nhưng lịch sử cho thấy, trong giai đoạn đầu thì Fed tăng lãi suất sẽ ảnh hưởng mạnh nhất tới TTCK, các lần sau tác động giảm dần và dần dần không đáng kể.

Theo thống kê của Yuanta, lịch sử từ 1900 đến nay, có 10 trường hợp Dow Jones giảm trên 10%, xác suất cao là 68% chỉ số Dow Jones tăng hồi phục trong 6 tháng cuối năm. Năm 2022, Dow Jones đã giảm hơn 20% từ tháng 4, nếu theo lịch sử, thì có xác suất cao có kịch bản trong nửa cuối năm chỉ số Dow Jones sẽ tăng, với mức tăng là 4,45%, và trung bình là 7%.

Ông Minh cho rằng, cũng có nghĩa rằng có thể kỳ vọng kịch bản tích cực đối với thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhìn từ 2013 tới nay, định giá P/E có 3 lần về mức 12 lần thì bật lên, và theo đó, kỳ vọng 6 tháng cuối năm vẫn tin tưởng tích cực, nhưng thanh khoản sẽ không cao như 2021. Tình trạng phân hóa sẽ xảy ra chứ không phải tăng đồng loạt ở các nhóm cổ phiếu.

Đường cong lãi suất đảo ngược, e ngại suy thoái và khủng hoảng

Đường cong lãi suất đang đảo ngược, thường đây là dấu hiệu cảnh báo suy thoái và mở rộng ra là khủng hoảng, theo đó, giới đầu tư cũng e ngại về khả năng có khủng hoảng thời gian tới.

Ông Minh cho rằng, trong lịch sử có 6 lần đường cong lãi suất (mức chênh lợi suất kỳ hạn 10 năm so với 2 năm) về mức thấp, và thậm chí quay về đáy năm 2000 và 2007, mỗi khi đường cong lãi suất khi về vùng này là vùng cảnh báo rủi ro suy thoái xảy ra.

Đã có 6 đợt suy thoái, trong đó có 2 đợt khủng hoảng lớn nhất là năm 2000 và 2007 – và 2 năm này, chỉ số Dow Jones đã rơi đâu đó trên 48%, thậm chí 2008 khủng hoảng tài chính thì chỉ số này giảm hơn 55%.

Tương tự như vậy, đường cong lãi suất hiện nay cũng đang rơi về 2 vùng đáy này, có nghĩa là suy thoái có thể xảy ra, theo ông Minh.

Tuy nhiên, 2 lần trước trước khi đường cong lãi suất giảm thì chỉ số Dow Jones đều tăng trưởng rất mạnh, còn lần này, chỉ số này có mức sụt giảm hơn 20% trước khi đường cong lãi suất quay về mức đáy. Có nghĩa rằng lần này, ông Minh cho rằng, phần lớn đến từ yếu tố tác động lớn là lạm phát khiến cho đường cong lãi suất giảm.

Mức tác động của lạm phát thời gian qua chủ yếu từ các yếu tố ngắn hạn, như xung đột Nga - Ukraine, đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu do covid. Những yếu tố này khi giải quyết được thời gian tới thì có thể giải quyết được bài toán là mức hồi phục của đường cong lãi suất.

"Hiện tại, chưa có dấu hiệu đáng lo ngại rằng, các đợt suy thoái thời gian tới sẽ mở rộng ra thành các đợt khủng hoảng", ông Minh nhận định.

Tin bài liên quan