Ông giám đốc trên cho hay, nhà đầu tư nước ngoài chia sẻ rằng, với sự hỗ trợ của máy móc công nghệ hiện đại, họ cần những nhân công có tay nghề cao. Họ chấp nhận thuê 100 nhân công cho nhà máy và trả lương cao gấp đôi cho mỗi người hơn là thuê tới 200 người, song đi tới 3 trường dạy nghề mà vẫn chưa tuyển đủ một nửa số lao động trên, rốt cuộc nhà đầu tư đành tuyển người thiếu kinh nghiệm để đào tạo dần. Tại diễn đàn đầu tư này, một thông điệp được nhắc khéo với Việt Nam là thiếu nhân công lành nghề, nhân sự cao cấp có thể khiến môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam sẽ giảm sức hấp dẫn.
Tại cuộc điều tra cảm nhận môi trường kinh doanh Việt Nam 2007 do Ban thư ký Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam tiến hành vào tháng 10/2007 cho thấy, những lĩnh vực mà doanh nghiệp đánh giá kém nhất, đồng thời cũng là những lĩnh vực cần phải cải thiện nếu Việt Nam muốn trở thành một nơi có môi trường kinh doanh cạnh tranh là nguồn cung lao động có tay nghề chuyên môn cao. Doanh nghiệp bày tỏ mối quan ngại ngày càng sâu sắc về sự thiếu hụt nguồn nhân lực có tay nghề và điều này hiện là một yếu tố làm cản trở sự phát triển và tính cạnh tranh của doanh nghiệp. Đây là lần đầu tiên, sự thiếu hụt lao động được đánh giá là rào cản chính cho việc mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp ngày càng gặp khó khăn trong việc tuyển dụng và lưu giữ nhân viên có tay nghề chuyên môn cao. Vấn đề này cần được giải quyết ngay, nếu Việt Nam muốn duy trì khả năng cạnh tranh, đặc biệt vào thời kỳ hậu WTO khi tăng trưởng đầu tư nước ngoài nhanh chóng dẫn đến nhu cầu cao về nhân lực.
Nguyên nhân thiếu hụt lao động chuyên môn cao được nhìn nhận từ lâu, đơn cử doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa có thêm nguồn vốn đổi mới quản lý, mở rộng sản xuất nên có nhu cầu cán bộ giỏi. Doanh nghiệp tư nhân phát triển ngày càng nhiều đến năm 2010 đạt 500.000 doanh nghiệp hay đầu tư nước ngoài tăng đột biến nhờ môi trường hấp dẫn. Song ở Việt Nam lâu nay, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội chỉ quan tâm đến báo cáo số lượng người được đào tạo, bất kể ngắn hay dài hạn mà chưa tính đến, liệu những đối tượng được đào tạo ấy có đáp ứng được đòi hỏi của doanh nghiệp hay không cả về số lượng và chất lượng. Cơ sở đào tạo lại không nắm chắc nhu cầu của doanh nghiệp, phương tiện, giáo trình thiếu cập nhật, đội ngũ quản lý giáo dục thiếu năng động nên không có khả năng thu hút sự quan tâm, đóng góp hay hỗ trợ từ doanh nghiệp.
Làm gì để cải thiện tình hình này? Ông Lý Đình Sơn, Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam cho rằng, cần xem xét và điều chỉnh cách thức hỗ trợ theo hướng nâng cao năng lực để các hiệp hội doanh nghiệp có vai trò lớn và tích cực hơn, đồng thời khuyến khích tư nhân cùng đầu tư vào quản lý, đào tạo nghề.
Ông Đặng Đức Dũng, Phó chủ tịch Hội Doanh nghiệp trẻ Hà Nội lại hiến kế, Chính phủ nên nhanh chóng ban hành chính sách khuyến khích phát triển việc dạy nghề (ưu đãi thuế, đào tạo, bảo hiểm xã hội) nhằm tăng nguồn nhân lực cho mở mang hệ thống giáo dục. Cho phép các trường được tuyển hoặc thuê chuyên gia, Việt kiều làm việc cho các ngành kỹ thuật, ngoại ngữ, quản trị. Xây dựng các ngân hàng tài nguyên giáo dục và dạy nghề để các trường mới có thể tiếp cận với chi phí thấp nhằm nhanh chóng khai thác nhu cầu thị trường, để các trường hiện hữu có điều kiện so sánh, cập nhật kiến thức còn yếu kém của mình. Yêu cầu các trường phải công khai hóa hoạt động đào tạo và tăng cường trao đổi thông tin giữa nhà trường và doanh nghiệp... Đề nghị như vậy, nhưng liệu băn khoăn của nhà đầu tư có được đáp ứng đang là mối quan tâm của cả cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước.