Phát triển kinh tế Việt Nam tầm nhìn năm 2045 - Bài 1: Tư duy về tăng trưởng và phát triển trong kiến tạo nền kinh tế phú cường

0:00 / 0:00
0:00
Nếu tăng trưởng là chỉ số, là sự gia tăng về quy mô kinh tế, thì phát triển là chất lượng, là sự bền vững về kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường và con người. Tăng trưởng chỉ là biểu hiện bề mặt; phát triển mới là nội hàm cốt lõi của tiến bộ xã hội.
Phát triển đối với Việt Nam không đơn thuần là làm giàu, mà là bước đi sinh tồn và định vị chiến lược, nâng tầm quốc gia trước thế giới trong thế kỷ XXI

Phát triển đối với Việt Nam không đơn thuần là làm giàu, mà là bước đi sinh tồn và định vị chiến lược, nâng tầm quốc gia trước thế giới trong thế kỷ XXI

Lời Tòa soạn: Để tiến vào kỷ nguyên mới, trước những đột phá, những thay đổi mang tính thời đại của hệ thống kinh tế thế giới đang định hình lại trật tự, chúng ta không thể không định vị chiến lược đất nước, trước hết là kinh tế, trong thế giới đương đại. Điều này quyết định vị thế, sức mạnh đất nước với tư cách là quốc gia phát triển, có thu nhập cao. Trong tầm nhìn tới năm 2045, trước mắt tới năm 2030, trên cơ sở các điều kiện kinh tế - xã hội, cấp bách đòi hỏi đổi mới toàn diện, mạnh mẽ, sâu sắc tư duy, quan điểm, đổi mới nền thể chế bao trùm, triển khai đồng bộ, thống nhất các chính sách, giải pháp để tạo dựng nền tảng, động lực phát triển kinh tế đất nước. Đây là cơ hội, đồng thời là thách thức khó khăn và nghiệt ngã.

Bài 1: Tư duy về tăng trưởng và phát triển trong kiến tạo nền kinh tế phú cường

Nếu tăng trưởng là chỉ số, là sự gia tăng về quy mô kinh tế, thì phát triển là chất lượng, là sự bền vững về kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường và con người. Tăng trưởng chỉ là biểu hiện bề mặt; phát triển mới là nội hàm cốt lõi của tiến bộ xã hội.

Tầm nhìn chiến lược về phát triển

Tầm nhìn hướng tới mục tiêu phát triển đất nước phú cường, có vị thế toàn cầu vào năm 2045 nghĩa là Việt Nam không chỉ giàu về kinh tế, mà còn mạnh về chính trị, văn hóa, xã hội, thể chế, con người và sức cạnh tranh quốc gia. Nói cách khác, đó là sự kết hợp tăng trưởng - công bằng - bền vững - văn hóa - con người, để thách thức mọi giới hạn phát triển.

Do đó, Việt Nam phải phát triển theo hướng hiện đại - khai phóng - hội nhập sâu rộng, dựa trên sức mạnh nội lực mà nền tảng là kinh tế và chuyển hóa các nhân tố đó thành quyền lực mềm, không ngừng hoàn thiện hệ giá trị phát triển quốc gia.

Không có nền kinh tế nào được xem là thịnh vượng và bền vững, nếu không dựa trên thực lực mạnh mẽ của mình, đáp ứng nhu cầu phát triển của quốc dân, tương dung với hệ giá trị và chuẩn mực quốc tế và bảo đảm sự cân bằng tổng thể trong bất cứ tình thế và hoàn cảnh nào. Sự phát triển của kinh tế Việt Nam không nằm ngoài tính quy luật đó.

Thước đo về nền kinh tế Việt Nam thịnh vượng phải là chỉ số một nền kinh tế có thu nhập bình quân đầu người cao, nhưng gia tăng liên tục và ổn định. Không chỉ thể hiện bằng chỉ số GDP, mà phải thể hiện bằng một nền kinh tế khỏe mạnh, có sức cạnh tranh cao.

Mặt khác, tăng trưởng của nền kinh tế phải đạt tốc độ cao, sử dụng mọi nguồn lực có hiệu quả và khả năng cạnh tranh phải được xếp ở thứ hạng cao. Cơ cấu kinh tế phải được chuyển dịch theo hướng hiệu quả và ngày càng cải thiện, phù hợp với đất nước và hệ giá trị với chuỗi cung ứng quốc tế. Và trên hết, bảo đảm cân bằng chiến lược, phát triển với tốc độ cao mà bền vững và nhân văn.

Tăng trưởng và phát triển

Không có nền kinh tế nào được xem là thịnh vượng và bền vững, nếu không dựa trên thực lực mạnh mẽ của mình, đáp ứng nhu cầu phát triển của quốc dân, tương dung với hệ giá trị và chuẩn mực quốc tế và bảo đảm sự cân bằng tổng thể trong bất cứ tình thế và hoàn cảnh nào. Sự phát triển của kinh tế Việt Nam không nằm ngoài tính quy luật đó.

Nếu tăng trưởng là chỉ số, là sự gia tăng về quy mô kinh tế, thì phát triển là chất lượng, là sự bền vững về kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường và con người. Tăng trưởng chỉ là biểu hiện bề mặt; phát triển mới là nội hàm cốt lõi của tiến bộ xã hội. Chạy theo tốc độ tăng trưởng mà lãng quên nền tảng phát triển là tự đào hố chôn mình.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh chiến lược, cần cảnh báo, cạnh tranh chiến lược không chỉ về công nghệ hay thương mại, mà là cạnh tranh mô hình phát triển với việc nắm bắt xu hướng, tận dụng thời cơ, làm mới động lực tiêu dùng có tầm quan trọng đặc biệt với tăng trưởng, phát triển kinh tế.

Do đó, để tránh mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào tài nguyên, đầu tư công, lao động giá rẻ, thiếu tính bền vững, sáng tạo và động lực nội sinh cần hướng tới mô hình phát triển dựa vào tri thức - công nghệ - con người - quản trị hiệu quả - văn hóa phát triển. Đó chính là sức bền của sự phát triển phù hợp với xu thế phát triển kinh tế quốc tế trong kỷ nguyên phát triển công nghệ như vũ bão hiện nay.

Vì thế, phát triển đối với Việt Nam không đơn thuần là làm giàu, mà là bước đi sinh tồn và định vị chiến lược, nâng tầm quốc gia trước thế giới trong thế kỷ XXI.

Kinh tế với văn hóa và văn hóa với kinh tế song hành với chính trị và an ninh, quốc phòng

Việt Nam phú cường là dân giàu, nước mạnh, văn hóa rạng ngời, quốc gia tự tin hội nhập mà không hòa tan. Do đó, một cách tất yếu, kinh tế và văn hóa là không tách rời, mà thẩm thấu, nuôi dưỡng và nâng đỡ nhau. Đó là hai mặt của một chỉnh thể phát triển.

Kinh tế trong văn hóa - nền đỡ và linh hồn của bản sắc Việt Nam. Văn hóa muốn phát triển, phải có cơ chế kinh tế: công nghiệp văn hóa biến giá trị sáng tạo thành sản phẩm có sức cạnh tranh trong và ngoài nước (phim ảnh, âm nhạc, du lịch, ẩm thực, thời trang…); kinh tế hóa di sản không thương mại hóa thô thiển, mà phát triển du lịch văn hóa, dịch vụ gắn với bảo tồn; đầu tư cho sáng tạo (kinh tế mạnh giúp nghệ thuật, giáo dục, bảo tồn di sản có điều kiện phát triển và lan tỏa).

Kinh tế cung cấp nguồn lực, công cụ và môi trường để văn hóa tồn tại, lan tỏa và phát triển, bảo đảm tính hiện thực và sức sống của giá trị văn hóa. Không có một quốc gia phú cường nào chỉ dựa vào tăng trưởng vật chất, mà thiếu chiều sâu văn hóa; và không có văn hóa mạnh nào lại tồn tại bền lâu nếu kinh tế yếu kém.

Nói gọn lại, kinh tế không chỉ bảo đảm cho văn hóa bằng “giá đỡ” vật chất, mà còn bằng cơ chế thị trường văn minh, tạo động lực cho sáng tạo, bảo tồn văn hóa để cùng nhau phát triển.

Đến lượt văn hóa trong kinh tế, văn hóa không chỉ là nền tảng, động lực, mà còn là bản sắc của toàn bộ hoạt động kinh tế. Một nền kinh tế mạnh nhưng không có bản sắc văn hóa, sẽ thiếu chiều sâu và dễ bị tổn thương trước biến động của thị trường. Văn hóa trong kinh tế chính là “chất men” và “hồn cốt” phát triển kinh tế. Đó là đạo lý, bản lĩnh và lối sống dân tộc được chuyển hóa trong chiến lược kinh tế, bảo đảm mỗi chính sách kinh tế đều thấm đẫm tinh thần dân tộc, đạo đức kinh doanh, tôn trọng con người và thiên nhiên.

Đồng thời, mỗi sản phẩm và dịch vụ kinh tế đều mang dấu ấn Việt Nam, từ mỹ thuật, bao bì, đến thương hiệu. Mặt khác, trong quan hệ kinh tế, thương nhân, doanh nghiệp giữ chữ tín, đề cao sự hợp tác các bên cùng có lợi, nếu không có văn hóa trong kinh tế, xã hội dễ chạy theo lợi nhuận ngắn hạn, dẫn tới suy thoái đạo đức, kinh tế lệch hướng phát triển.

Mục tiêu Việt Nam phú cường là sự hợp lưu hai nhân tố căn bản kinh tế với văn hóa và văn hóa với kinh tế, nhằm bảo đảm ổn định chính trị và chiến lược phòng thủ quốc gia. Sự hợp lưu này ngày càng trở thành “điểm xoay” chiến lược. Kinh tế phải mang hồn văn hóa để tạo lợi thế cạnh tranh mềm trên thị trường toàn cầu; văn hóa phải trở thành nguồn lực trực tiếp cho tăng trưởng, không chỉ là yếu tố tinh thần; xây dựng thương hiệu quốc gia vừa giàu vật chất, vừa giàu nhân văn; làm giàu văn hóa dựng nước song hành phát triển văn hóa giữ nước.

Việt Nam chỉ có thể phú cường, nếu lấy văn hóa soi đường cho kinh tế và lấy kinh tế nuôi dưỡng cho văn hóa một cách thống nhất, xứng đáng là giá đỡ của sự ổn định chính trị và giữ vững an ninh, quốc phòng đất nước. Sự phát triển kinh tế hướng tới năm 2045 cần thấm đẫm triết lý kinh tế - văn hóa song hành, tiên lượng và tránh hai căn bệnh: kinh tế vô cảm (tăng trưởng thuần túy, nhưng xa rời, mất gốc văn hóa); văn hóa nghèo nàn (giàu giá trị tinh thần, nhưng không đủ sức tự nuôi chính mình).

Có thể hình dung ở 3 góc độ:

Thứ nhất, phát triển phải kiến tạo - không xin cho - không lệ thuộc. Nhà nước phải là nhà nước kiến tạo phát triển, không bao cấp, không hành chính hóa nền kinh tế. Cần giải phóng năng lực sản xuất - giải phóng tư duy - giải phóng con người.

Thứ hai, phát triển phải đồng bộ giữa các khu vực kinh tế với văn hóa, môi trường, xã hội. Quốc gia không thể được đánh giá là phát triển nếu môi trường bị hủy hoại; văn hóa mai một; bất công xã hội không được kiểm soát. Do đó, con người phải làm trung tâm, văn hóa làm nền tảng và công nghệ làm bệ phóng trên nền tảng tâm thế quốc gia và tâm lý quốc dân vì sự phát triển và trong phát triển toàn diện.

Thứ ba, phát triển cần chính trị ổn định và thể chế hiện đại. Không có tăng trưởng nhanh nếu chính trị thiếu ổn định và thể chế không tương dung. Muốn tăng trưởng nhanh và bền vững, không thể không cải cách thể chế - bộ máy - tư duy điều hành - cơ chế vận hành - kiểm soát quyền lực, trong đó nhân tố con người giữ vị thế căn bản và hệ thể chế giữ vai trò động lực chủ yếu.

Phát triển bền vững của Việt Nam không chỉ theo chuẩn mực quốc tế, mà phải dựa trên hệ giá trị dân tộc với 3 trụ cột phát triển bền vững: kinh tế độc lập; văn hóa bền vững; chính trị ổn định.

Từ thực tiễn phát triển và yêu cầu từ tương lai, Việt Nam phải tránh lệ thuộc vào mô hình kinh tế ngoại lai, nhưng cũng không đóng cửa nhằm phát triển mô hình Việt Nam riêng biệt, mà kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa dân tộc hiện đại và tinh thần đổi mới, mở cửa, hội nhập và sáng tạo.

Muốn xây dựng nền kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững, phải có tầm nhìn, có tư duy, có hệ giá trị, có đạo lý, có khát vọng và có bản lĩnh. Nói một cách hình ảnh, đó phải là nền kinh tế Việt Nam phát triển với tốc độ cao, nhưng bền vững, nhân văn và có linh hồn.

(Còn tiếp)

Tin bài liên quan