Ông Phạm Thanh Hà, Phó Thống đốc NHNN phát biểu tại Tọa đàm

Ông Phạm Thanh Hà, Phó Thống đốc NHNN phát biểu tại Tọa đàm

Thực hành tiết kiệm để đầu tư hiệu quả

(ĐTCK) Cùng với quá trình phát triển của đất nước, nguồn vốn tiết kiệm trong dân cư ngày càng được củng cố và khẳng định vai trò là một trong những nguồn lực quan trọng của nền kinh tế, góp phần duy trì ổn định và thúc đẩy tăng trưởng.

Tiết kiệm: động lực quan trọng phát triển bền vững

Nói về tiết kiệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, coi đó là một chuẩn mực đạo đức và là nền tảng của phát triển. Ngay trong tác phẩm Đường Kách mệnh được xuất bản năm 1927, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định “cần, kiệm” là phẩm chất đầu tiên của người cách mạng - nền tảng để xây dựng con người mới và phát triển đất nước. Người định nghĩa giản dị mà sâu sắc: “Tiết kiệm là không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi” - tức là biết sử dụng hợp lý và hiệu quả mọi nguồn lực. Theo Người, dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính sẽ “giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, văn minh và tiến bộ”.

Phát biểu tại Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số” do Thời báo Ngân hàng tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới 31/10, ông Phạm Thanh Hà, Phó Thống đốc NHNN cho biết, những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tiết kiệm đến nay vẫn còn nguyên giá trị, trở thành kim chỉ nam trong xây dựng và phát triển đất nước. Trong giai đoạn phát triển mới, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, đất nước không thể phát triển nhanh, tăng trưởng hai con số nếu không tiết kiệm, vẫn để xảy ra tình trạng lãng phí.

Phó Thống đốc nói: “Thông điệp ấy khẳng định, tiết kiệm không chỉ là nét đẹp văn hoá của con người Việt Nam mà còn là động lực quan trọng cho phát triển bền vững của đất nước”.

Cùng với quá trình phát triển của đất nước, nguồn vốn tiết kiệm trong dân cư ngày càng được củng cố và khẳng định vai trò là một trong những nguồn lực quan trọng của nền kinh tế, góp phần duy trì ổn định và thúc đẩy tăng trưởng. Hệ thống ngân hàng là kênh trung gian chủ lực, huy động và phân bổ hiệu quả nguồn vốn vào sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, đến giữa năm 2025, tiền gửi dân cư tại các TCTD đạt trên 7,3 triệu tỷ đồng, tăng gần 10% so với cùng kỳ năm trước.

“Nguồn lực tài chính dồi dào này đã góp phần quan trọng giúp duy trì đà tăng trưởng GDP của Việt Nam ở mức cao và là điểm sáng trong khu vực, đồng thời là minh chứng rõ nét cho hiệu quả của phát huy nguồn tiết kiệm trong dân cư như một sức mạnh nội sinh của nền kinh tế”, Phó Thống đốc nói.

PGS.TS. Chu Khánh Lân, Phó Vụ trưởng Vụ Dự báo thống kê - Ổn định tiền tệ.

PGS.TS. Chu Khánh Lân, Phó Vụ trưởng Vụ Dự báo thống kê - Ổn định tiền tệ.

PGS.TS. Chu Khánh Lân, Phó Vụ trưởng Vụ Dự báo thống kê - Ổn định tiền tệ nhận định, tiết kiệm có vai trò rất quan trọng, hành động đem lại sự phát triển của mỗi cá nhân, gia đình và đất nước, đồng thời còn giúp cho một quốc gia có khả năng chống chịu, hội nhập một cách bền vững.

Trên thế giới, một số quốc gia vượt qua được mức thu nhập trung bình như Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc họ có hệ số sử dụng vốn (ICOR) rất thấp chỉ từ 3,0 - 3,5 nhưng đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao chỉ trong một giai đoạn đến 15-16 năm nhờ vào việc tiết kiệm. Tuy nhiên, họ phải đầu tư rất hiệu quả thì hệ số ICOR mới thấp. Ngược lại, một số quốc gia không vượt qua được bẫy thu nhập trung bình như Thái Lan và Malaysia thì hệ số ICOR cao, số năm có tốc độ tăng trưởng cao lại không nhiều.

“Tại Việt Nam, 30 năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân chỉ khoảng 6,5%, tỷ lệ tiết kiệm GDP cũng không phải thấp là 29%, nhưng không được cao như các quốc gia phát triển. Trong khi đó, tỷ lệ đầu tư GDP khoảng 30%. Một mặt là chênh lệch giữa hai chỉ số nhưng tốc độ tăng trưởng thấp hơn, tức câu chuyện ở đây không chỉ thực hành tiết kiệm để đầu tư mà phải làm như thế nào để hiệu quả”, ông Lân nhấn mạnh.

Tiết kiệm và những giải pháp

Mục tiêu trọng tâm của Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia về tài chính toàn diện đến năm 2025 định hướng đến năm 2030 xác định rõ “Mọi người dân và doanh nghiệp, đặc biệt là nhóm yếu thế, được tiếp cận và sử dụng an toàn, thuận tiện các sản phẩm, dịch vụ tài chính phù hợp nhu cầu với chi phí hợp lý”. Trong bối cảnh đó, tiết kiệm vi mô được xem là một trụ cột quan trọng trong việc hiện thực hóa mục tiêu của Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia. Tiết kiệm dù nhỏ là nền tảng của an toàn tài chính, giúp mỗi người, mỗi gia đình chủ động hơn trước những biến động của cuộc sống, đồng thời tạo điều kiện để họ tham gia sâu hơn vào hệ thống tài chính chính thức.

Bà Phạm Thị Thùy Linh, Tổng giám đốc, Tổ chức Tài chính vi mô Tình Thương (TYM) - Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chia sẻ, những năm đầu hoạt động, để trở thành khách hàng của TYM, mỗi chị em phải tham gia 5 buổi đào tạo cơ bản, học cách quản lý tài chính hộ gia đình, hiểu quy định về vay, trả, tiết kiệm, và vượt qua một vòng phỏng vấn cuối khóa. Khoản vay ban đầu rất nhỏ, chỉ vừa đủ để thử sức với mô hình sản xuất hoặc buôn bán nhỏ, nhưng mỗi đồng vốn đều đi cùng tiết kiệm. Song song với vốn vay, chị em bắt đầu gửi tiết kiệm hằng tuần ngay tại cụm - nơi TYM tổ chức sinh hoạt, giao lưu và thu tiền tiết kiệm ngay chính tại địa phương, nơi chị em sinh sống.

Bà Phạm Thị Thùy Linh, Tổng giám đốc, Tổ chức Tài chính vi mô Tình Thương (TYM) - Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

Bà Phạm Thị Thùy Linh, Tổng giám đốc, Tổ chức Tài chính vi mô Tình Thương (TYM) - Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

“Số tiền gửi có khi chỉ 3.000, 5.000 hay 10.000 đồng mỗi kỳ, bằng giá một mớ rau, một gói muối, nhưng đó là khởi đầu của thói quen tích lũy, của niềm tin rằng phụ nữ nghèo cũng có thể để dành cho tương lai”, bà Linh nói.

Cũng theo bà Linh, TYM đã giúp phụ nữ hiểu rằng tiết kiệm không phải là phần còn lại sau chi tiêu, mà là khoản cần “dành riêng” trước tiên. Nhờ cách tiếp cận này, hàng chục nghìn chị em đã có cuốn sổ tiết kiệm đầu tiên mang tên mình - kết quả của nỗ lực, kỷ luật và niềm tin vào tương lai. Điểm khác biệt của TYM không chỉ ở dịch vụ tài chính, mà ở việc thay đổi nhận thức về giá trị của tiết kiệm. Mỗi khoản gửi, dù nhỏ, đều được ghi nhận cẩn thận, giúp phụ nữ thêm tự tin, giảm phụ thuộc tài chính và chủ động hơn trong cuộc sống. Nhiều người đã tích lũy đủ để mở cửa hàng, đầu tư chăn nuôi hoặc dành dụm cho tương lai con cái.

“Ngày nay, trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều biến động, cạnh tranh nguồn lực ngày càng gay gắt, nguồn vốn quốc tế thu hẹp, chi phí vốn gia tăng, việc phát huy nội lực, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong nước càng có ý nghĩa chiến lược hơn bao giờ hết. Cũng vì lẽ đó, tiết kiệm không chỉ là giá trị truyền thống, mà đã trở thành một yêu cầu phát triển, là nền tảng để củng cố sức mạnh tài chính quốc gia, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và tăng sức chống chịu của nền kinh tế”, Phó Thống đốc nói.

Để thúc đẩy tiết kiệm, vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo rất lớn, ông Lân nhấn mạnh, Các Nghị quyết 57 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đều khẳng định đây là công cụ chủ chốt để tạo sự đột phá không chỉ tổng thể nền kinh tế mà còn trong từng lĩnh vực - trong đó có hoạt động về thúc đẩy tài chính toàn diện.

Hiện nay, hơn 95% giao dịch của người dân được thực hiện qua kênh số, thanh toán không dùng tiền mặt tăng bình quân trên 45%/năm giúp tiết kiệm hàng chục nghìn tỷ đồng chi phí xã hội mỗi năm. Ở góc độ ngân hàng, việc đa dạng hóa sản phẩm tiết kiệm trên nền tảng số không chỉ giúp gia tăng tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) - yếu tố quan trọng góp phần giảm chi phí vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động mà còn tạo thêm điều kiện để ngân hàng tiếp tục giảm lãi suất, hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế…

“Chỉ khi tiết kiệm trở thành thói quen, thành văn hóa ứng xử và là nguyên tắc quản trị, chúng ta mới có thể xây dựng một nền kinh tế tự cường, một xã hội phát triển bền vững, một đất nước thịnh vượng và hạnh phúc”, Phó Thống đốc nhấn mạnh.

Khảo sát của Cục Thống kê (Bộ Tài chính): Tính đến quý III/2024 thì 68% người trưởng thành có tiết kiệm trong 12 tháng. Về mục đích tiết kiệm: 44% cho tuổi già (tăng theo độ tuổi; cao hơn ở thành thị); 31% cho giáo dục (tăng theo trình độ học vấn và thu nhập; cao hơn ở thành thị); chỉ có 13% cho đầu tư hoặc kinh doanh để đem lại hiệu quả, tức còn khá thấp.

Đối với hình thức tiết kiệm, khảo sát cho biết 47% giữ tại nhà (tăng theo thu nhập; cao hơn ở nông thôn); 33% gửi ngân hàng (tăng theo trình độ học vấn và thu nhập; cao hơn ở thành thị); 6% tiết kiệm không chính thức (cao hơn ở nông thôn); 0,4% đầu tư chứng khoán; 0,6% đầu tư vào quỹ hưu trí. Tức tiết kiệm chủ yếu vào hệ thống ngân hàng và tự thân, còn đầu tư vào thị trường tài chính còn thấp.

Ngoài ra, hiểu biết về tiền gửi tại tổ chức tín dụng: 20% không biết; 45% có nghe đến hoặc có biết; 35% biết rõ, do đó vẫn còn nhiều dư địa để các ngân hàng khai thác. Bên cạnh đó, việc tin tưởng vào tổ chức tín dụng được cấp phép để gửi tiền hoặc sử dụng sản phẩm lên đến 86,2%, chứng tỏ đây là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy tiết kiệm tại các kênh chính thức.

Tin bài liên quan