Chia sẻ tại Hội thảo "Phát triển kinh tế số trong kỷ nguyên mới" do Báo Tài chính - Đầu tư tổ chức sáng 25/11, TS. Đồng Mạnh Cường, Trưởng Khoa Kinh doanh Trường Đại học Anh Quốc Việt Nam (BUV) cho biết, trong quá trình Việt Nam chuyển mình sang một nền kinh tế số và kinh tế dựa trên công nghệ, khoảng trống nhân lực lớn nhất xuất hiện ở chính khu vực giao thoa giữa kinh doanh và công nghệ.
“Chúng ta không thiếu kỹ sư công nghệ hay chuyên gia quản trị, mà đang thiếu những con người thực sự hiểu cả hai thế giới và có khả năng kết nối chúng để tạo ra giá trị kinh tế mới. Trong lĩnh vực ra quyết định dựa trên dữ liệu và AI, nhiều lao động trẻ biết sử dụng công cụ nhưng còn thiếu tư duy phân tích và khả năng thiết kế các chiến lược dựa trên dữ liệu. Điều chúng ta cần không chỉ là những người biết dùng AI, mà là những người biết ứng dụng AI trong mô hình kinh doanh, biết đặt câu hỏi đúng và hiểu tác động của AI lên chuỗi giá trị của doanh nghiệp”, ông Cường cho biết.
![]() |
TS. Đồng Mạnh Cường, Trưởng Khoa Kinh doanh Trường Đại học Anh Quốc Việt Nam (BUV) chia sẻ tại Hội thảo |
Ở khía cạnh quản trị dữ liệu, tình trạng thiếu nhân lực có chuyên môn về kiến trúc dữ liệu, bảo mật, tuân thủ và phân tích nâng cao khiến nhiều doanh nghiệp vẫn loay hoay giữa việc có rất nhiều dữ liệu nhưng lại không thể biến nó thành lợi thế cạnh tranh. Khoảng trống lớn nằm ở những vị trí kết nối - những người có thể dịch ngôn ngữ kỹ thuật của đội IT sang ngôn ngữ chiến lược của đội kinh doanh để giúp doanh nghiệp ra quyết định nhanh hơn và chính xác hơn.
Khi các nền tảng công nghệ mới như blockchain, 5G, IoT và các hệ thống thanh toán số phát triển nhanh, khoảng thiếu hụt nhân lực “lai” càng rõ rệt. Đây là những người vừa hiểu công nghệ, vừa hiểu mô hình kinh doanh, vừa nắm được yêu cầu pháp lý và tiêu chuẩn an toàn. Đây cũng là nhóm nhân lực có thể vận hành mô hình tài chính dựa trên blockchain, tối ưu chuỗi cung ứng dựa trên dữ liệu thời gian thực từ 5G và IoT, hay phát triển dịch vụ fintech mới phù hợp với khung pháp lý.
“Theo tôi, thách thức lớn nhất của Việt Nam hiện nay không phải là thiếu nhân lực nói chung, mà là thiếu đúng những con người nằm ở điểm giao thoa giữa kinh doanh và công nghệ, những người có khả năng biến công nghệ thành năng suất, hiệu quả và giá trị kinh tế thực cho doanh nghiệp và cho nền kinh tế số quốc gia”, ông Cường đánh giá.
Trả lời câu hỏi Trường Đại học Anh Quốc Việt Nam đang phát triển những hợp tác chiến lược nào với các doanh nghiệp công nghệ, doanh nghiệp số và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo để tăng cường năng lực “công nghệ gắn liền với kinh doanh” cho sinh viên - như thương mại hóa AI, mô hình kinh doanh trong kỷ nguyên số, vận hành trên nền tảng cloud, hoặc ứng dụng 5G/IoT trong các ngành, ông Cường cho biết, BUV coi hợp tác chiến lược với các doanh nghiệp công nghệ và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo là một phần không thể tách rời trong triết lý đào tạo.
Nhà trường chủ động xây dựng mạng lưới đối tác với các tập đoàn công nghệ lớn, các doanh nghiệp số Việt Nam và các trung tâm đổi mới sáng tạo để đảm bảo sinh viên không chỉ học công nghệ trong lớp mà còn được tiếp xúc trực tiếp với cách công nghệ đang được thương mại hóa ngoài thị trường. BUV đã hợp tác với các công ty về AI, phân tích dữ liệu, điện toán đám mây và an ninh mạng để đưa các tình huống thực tế vào bài giảng cũng như để xây dựng các dự án tư vấn mà sinh viên có thể tham gia.
Thông qua những hợp tác này, sinh viên có cơ hội làm việc trực tiếp với dữ liệu thật và quy trình thật, chẳng hạn như phát triển mô hình AI phục vụ marketing, tối ưu hóa vận hành dựa trên dữ liệu lớn hoặc tham gia các dự án thiết kế giải pháp số dựa trên công nghệ điện toán đám mây.
Song song đó, BUV đang phát triển các chương trình hợp tác với các doanh nghiệp trong lĩnh vực fintech, thương mại điện tử, logistics công nghệ và các công ty đang vận hành hạ tầng 5G hoặc IoT. Những đối tác này không chỉ cung cấp cơ hội thực tập mà còn tham gia đồng thiết kế bài học, giảng dạy khách mời và đặt ra các bài toán kinh doanh thực tế để sinh viên giải quyết. Nhờ vậy, sinh viên có thể tiếp cận các mô hình kinh doanh mới nổi trong kỷ nguyên số như nền tảng thanh toán số, mô hình kinh tế nền tảng, quản lý chuỗi cung ứng thông minh hay dịch vụ số dựa trên dữ liệu thời gian thực. Điều quan trọng là sinh viên không chỉ quan sát mà phải tham gia vào quá trình phân tích, đề xuất và thử nghiệm, từ đó hình thành tư duy đổi mới gắn liền với ứng dụng công nghệ.
Ngoài doanh nghiệp, BUV cũng hợp tác với các vườn ươm, trung tâm đổi mới sáng tạo và các đơn vị phát triển startup để tạo ra một môi trường nơi sinh viên có thể thử nghiệm ý tưởng và nhận hỗ trợ trực tiếp từ các cố vấn trong ngành. Những hệ sinh thái này cho phép sinh viên hiểu rõ hơn cách thương mại hóa công nghệ, đặc biệt là trong các lĩnh vực như AI, dữ liệu lớn hay tự động hóa thông minh. Nhiều dự án sinh viên BUV đã được các doanh nghiệp đánh giá cao và đưa vào kế hoạch triển khai thử nghiệm, cho thấy mô hình hợp tác này thực sự mang lại giá trị hai chiều.
“Nhìn chung, chiến lược hợp tác của BUV không chỉ dừng ở việc “đưa doanh nghiệp vào đại học”, mà còn hướng tới mục tiêu đưa sinh viên vào thẳng hệ sinh thái công nghệ và đổi mới sáng tạo. Điều này giúp các em hiểu sâu cách công nghệ vận hành trong bối cảnh kinh doanh, học được cách chuyển hóa AI, cloud, 5G hay IoT thành mô hình kinh doanh thực tế, và quan trọng hơn là phát triển tư duy ứng dụng công nghệ để tạo ra giá trị kinh tế mới cho tương lai”, ông Cường cho biết.
