Bứt phá khỏi bẫy thu nhập trung bình

0:00 / 0:00
0:00
Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đảng XIV đặt mục tiêu phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân từ 10% trở lên trong 5 năm tới. Theo TS. Phùng Văn Hùng, nguyên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội khóa XIII, XIV, đây là điều kiện tiên quyết để Việt Nam bứt phá, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.
TS. Phùng Văn Hùng, nguyên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội khóa XIII, XIV.

TS. Phùng Văn Hùng, nguyên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội khóa XIII, XIV.

Dưới góc nhìn của một người từng là Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, ông nhìn nhận thế nào về mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2 con số trong giai đoạn tới?

Việc đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2 con số không chỉ là khát vọng, mà còn thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng đối với giai đoạn phát triển mới của đất nước. Sau gần 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt mức thu nhập trung bình; quy mô nền kinh tế năm 2025, theo báo cáo của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ mười của Quốc hội, ước đạt 510 tỷ USD; GDP bình quân đầu người tăng từ 4.700 USD năm 2024 lên khoảng 5.000 USD - chính thức đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia có thu nhập trung bình cao.

Việc xác lập mô hình tăng trưởng mới giai đoạn 2026 - 2030 với mục tiêu GDP bình quân 10%/năm không chỉ là khát vọng, mà còn là thách thức để hoán chuyển thành cơ hội phát triển. Để thực hiện được khát vọng và vượt qua thách thức, Dự thảo Báo cáo Chính trị chỉ ra mọi động lực, nguồn lực tăng trưởng bao gồm đất đai, tài nguyên, lao động, xuất khẩu, thị trường trong nước, đầu tư... và năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) phải được huy động đồng bộ dưới khung đổi mới sáng tạo, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển đổi số.

Sau 40 năm Đổi mới, tích lũy kinh nghiệm, nguồn lực, tôi cho rằng, giai đoạn 2026 - 2030 là thời kỳ bản lề, có tính chất quyết định liệu Việt Nam có vượt qua bẫy thu nhập trung bình hay không. Nếu chỉ tăng trưởng 6 - 7%/năm như hiện nay, thì đến năm 2045, Việt Nam vẫn chỉ ở mức thu nhập trung bình cao, chứ chưa thể trở thành nước phát triển. Muốn đạt tầm đó, chúng ta phải tăng trưởng bình quân trên 9 - 10%/năm trong ít nhất 10 năm tới.

Nếu chỉ tăng trưởng 6 - 7%/năm như hiện nay, thì đến năm 2045, Việt Nam vẫn chỉ ở mức thu nhập trung bình cao, chưa thể trở thành nước phát triển. Ảnh: Đức Thanh

Nếu chỉ tăng trưởng 6 - 7%/năm như hiện nay, thì đến năm 2045, Việt Nam vẫn chỉ ở mức thu nhập trung bình cao, chưa thể trở thành nước phát triển. Ảnh: Đức Thanh

Trong thập niên vừa qua, nền kinh tế Việt Nam đã có sự phát triển đáng ghi nhận nhờ tái cơ cấu. Trong giai đoạn tới, muốn tăng trưởng nhanh hơn, ông có nghĩ, Việt Nam phải có bước tái cơ cấu mạnh mẽ hơn?

Sau nhiều năm nỗ lực, phấn đấu, tập trung tái cơ cấu nền kinh tế, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công. Năm 2025, dự kiến, GDP tăng trên 8%. Năm 2021, mặc dù chịu ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch Covid-19 khiến GDP chỉ tăng 2,55%, nhưng cả giai đoạn 2021 - 2025 vẫn tăng 6,3%, cao hơn tốc độ tăng 6,2% của giai đoạn trước, nhờ từ năm 2022 đến nay, tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,2%/năm, vượt mục tiêu 6,5 - 7%.

Nhờ đó, quy mô nền kinh tế Việt Nam tăng từ 346 tỷ USD năm 2020 lên 510 tỷ USD năm 2025, tăng 5 bậc, lên vị trí 32 thế giới; GDP bình quân đầu người năm 2025 ước đạt khoảng 5.000 USD, gấp 1,4 lần năm 2020, vào nhóm thu nhập trung bình cao (trên 4.600 USD/người). Cơ cấu kinh tế và chất lượng tăng trưởng chuyển biến tích cực: tỷ trọng các khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng từ 78,6% năm 2020 lên 80,5% vào năm 2025; đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế khoảng 47% vượt mục tiêu đặt ra là 45%.

Tuy nhiên, thẳng thắn đánh giá, sau hơn 10 năm triển khai 3 đột phá chiến lược gồm thể chế, hạ tầng và nhân lực, chúng ta đã đạt nhiều kết quả, nhưng vẫn còn độ trễ, chưa tạo chuyển biến đột phá về chất, đặc biệt là nhiệm vụ trọng tâm của trọng tâm là tái cơ cấu nền kinh tế.

Theo ông, tái cơ cấu cần tập trung vào mũi nhọn nào?

Tái cơ cấu nền kinh tế phải là “trục xuyên suốt” của giai đoạn tới. Tôi cho rằng, tái cơ cấu lần này vẫn cần tập trung vào đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống tài chính - ngân hàng.

Đối với đầu tư công, phải tập trung, lấy hiệu quả làm thước đo, tránh dàn trải. Nguồn lực ngân sách phải được sử dụng như “vốn mồi”, dẫn dắt đầu tư xã hội vào các ngành có sức lan tỏa cao như năng lượng tái tạo, công nghệ thông tin, logistics, nông nghiệp công nghệ cao.

Việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty lớn cần thúc đẩy cổ phần hóa thực chất, nâng cao quản trị, tách bạch vai trò chủ sở hữu và quản lý nhà nước. Còn đối với hệ thống tài chính - ngân hàng, phải đảm bảo dòng vốn chảy đúng hướng vào sản xuất, kinh doanh, đổi mới sáng tạo, chứ không chỉ quanh quẩn trong bất động sản hay trái phiếu ngắn hạn.

Tóm lại, mục tiêu tăng trưởng 2 con số giai đoạn 2026 - 2030 sẽ khả thi nếu đầu tư đủ mạnh, lao động đủ năng suất và TFP đủ cao, khai thác có hiệu quả thị trường trong và ngoài nước. Thành công phụ thuộc vào sự đồng bộ của chính sách, năng lực thể chế và quyết tâm đổi mới. Khi mô hình tăng trưởng mới vận hành thông suốt, Việt Nam không chỉ đạt tốc độ tăng trưởng 2 con số, mà còn tạo nền tảng bền vững cho giai đoạn phát triển tiếp theo.

Nếu làm quyết liệt, các cấu trúc mới này sẽ giúp tăng năng suất toàn nền kinh tế, tạo dư địa để đạt tốc độ tăng trưởng cao mà vẫn giữ ổn định vĩ mô.

Nguồn lực tài chính cho tăng trưởng 2 con số cũng là thách thức lớn. Theo ông, chúng ta có thể huy động từ đâu?

Nguồn lực là vấn đề trọng yếu. Hiện tỷ lệ tích lũy tài sản của Việt Nam (nguồn lực đầu tư để tái sản xuất mở rộng quy mô lớn hơn) trong nhiều năm qua chỉ đạt từ 30,5 đến 32% GDP. Năm 2025, dù rất nỗ lực, đặc biệt là tăng đầu tư công, nhưng tích lũy tài sản của nền kinh tế cũng chỉ đạt 32,75% GDP.

Trong khi đó, theo kinh nghiệm của những nước đã thành công trong phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng 2 con số trong nhiều năm như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc, thì muốn tăng trưởng 2 con số, tỷ lệ tích lũy tài sản phải tương đương 38 - 40%. Để đạt được tỷ lệ này, trong thập kỷ tới, mỗi năm, nguồn lực để đầu tư cần tăng thêm khoảng 20 - 25 tỷ USD.

Muốn nâng tỷ lệ tích lũy tài sản/GDP, phải đa dạng hóa và khai thông các kênh huy động vốn. Cụ thể là huy động vốn tư nhân trong nước cần có cơ chế ưu đãi, minh bạch để doanh nghiệp tư nhân thực sự là “đầu tàu” đầu tư, đặc biệt trong hạ tầng, năng lượng sạch, công nghiệp công nghệ cao. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có chọn lọc, hướng vào công nghệ nguồn, chuỗi giá trị cao. Giai đoạn tới, Việt Nam không nên thu hút FDI bằng ưu đãi thuế, mà bằng chất lượng thể chế, nhân lực và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp theo chuẩn quốc tế. Đây là kênh quan trọng để giảm phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng. Tăng hiệu quả sử dụng ngân sách và vốn công, giảm thất thoát, nâng cao kỷ luật tài khóa, gắn chi đầu tư công với kết quả đầu ra.

Nếu chúng ta cơ cấu lại nguồn lực theo hướng này, thì bài toán vốn cho tăng trưởng 2 con số hoàn toàn có thể giải được.

Vốn cho tăng trưởng có thể hóa giải được, vấn đề là chất lượng tăng trưởng của Việt Nam khá thấp, thưa ông?

Theo Báo cáo đánh giá thực hiện Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 của Chính phủ, việc tháo gỡ vướng mắc cho các dự án tồn đọng và đất đai chưa đạt kỳ vọng. Qua rà soát, vẫn còn gần 3.000 dự án tồn đọng với tổng giá trị đầu tư khoảng 235 tỷ USD, cho thấy hiệu quả và chất lượng tăng trưởng còn thấp.

Dự thảo Báo cáo Chính trị cũng đã chỉ ra, tăng trưởng kinh tế vẫn dưới mức tiềm năng, chưa đạt mục tiêu đề ra; hiệu quả đầu tư, hệ số sử dụng vốn còn thấp (ICOR vẫn còn cao: 6,9); việc khơi thông, huy động và phân bổ nguồn lực phát triển còn hạn chế..., vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào các động lực truyền thống.

Giai đoạn tới, đổi mới mô hình tăng trưởng một mặt đòi hỏi nâng cao quy mô đầu tư, mặt khác phải đầu tư hiệu quả, hệ số ICOR duy trì ở mức khoảng 4,5 - nghĩa là cần 4,5 đồng vốn đầu tư để tạo ra một đồng GDP tăng thêm. Muốn vậy, phải nâng cao hiệu quả đầu tư, siết chặt lựa chọn dự án, áp dụng tự động hóa, số hóa quy trình sản xuất và quản trị dự án nghiêm ngặt...

Ngân sách trung ương tập trung đầu tư vào các dự án quan trọng quốc gia, công trình, dự án lớn, có tính liên vùng, liên quốc gia, quốc tế; ngân sách địa phương tập trung đầu tư vào các công trình, dự án có tính liên tỉnh, liên xã; bảo đảm đầu tư trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, có tính lan tỏa cao, dứt khoát không dàn trải, manh mún, cả nước không quá 3.000 dự án, bao gồm cả các dự án chuyển tiếp.

Năm 2026 không chỉ là năm đầu thực hiện kế hoạch nhiệm kỳ Đại hội Đảng, mà còn là năm đầu thực hiện kế hoạch tăng trưởng 2 con số. “Vạn sự khởi đầu nan”, công việc, nhiệm vụ phía trước rất nặng nề, nhưng Chính phủ rất quyết tâm khi trình Quốc hội 15 mục tiêu chủ yếu cho năm 2026 rất cao, trong đó tốc độ tăng trưởng GDP phấn đấu từ 10% trở lên; GDP bình quân đầu người đạt 5.400-5.500 USD.

Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị cùng với những quyết sách chiến lược về đổi mới, xây dựng và thi hành pháp luật; phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế tư nhân; hội nhập quốc tế… đang tạo ra cơ hội lịch sử, bước ngoặt cho phát triển đất nước.

Tin bài liên quan