Lý thuyết ngang giá sức mua không thể sử dụng làm căn cứ hoạch định chính sách
Lý thuyết ngang giá sức mua, gọi tắt là PPP (Purchasing Power Parity) nói đến mối quan hệ giữa biến động tỷ giá hối đoái và chênh lệch lạm phát của hai đồng tiền (đồng nội tệ và ngoại tệ). PPP cho rằng, nếu lạm phát trong nước cao hơn lạm phát nước ngoài thì đồng ngoại tệ sẽ tăng giá một khoảng tương đương với phần trăm chênh lệch trong tỷ lệ lạm phát của hai quốc gia có mối quan hệ mậu dịch. Tuy nhiên, PPP là một lý thuyết được xây dựng dựa trên nhiều giả định, mà những giả định này rất ít, nếu không muốn nói là khó tồn tại trong thực tế, chẳng hạn như thị trường là cạnh tranh hoàn hảo, không có chi phí giao dịch, chi phí vận chuyển và thương mại là hoàn toàn tự do, đó là chưa kể đến những sai biệt về chất lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, vấn đề thương hiệu và thị hiếu người tiêu dùng… Hay nói cách khác là mối quan hệ PPP phần lớn có tính ứng dụng lý thuyết, dùng để nghiên cứu mối tương quan giữa biến động tỷ giá hối đoái và chênh lệch lạm phát trong một thời gian dài.
Thực tế vào năm 2004, sau khi giải Nobel Kinh tế năm 2003 được công bố với công trình của hai nhà kinh tế học người Mỹ là Clive W.J. Granger và Robert F. Engle, hai ông đã cung cấp một công cụ hữu hiệu trong việc phân tích tác động đồng thời của các biến số kinh tế lên một biến số kinh tế khác trong một thời kỳ. Granger và Engle, khi xem xét mối quan hệ tương tác của các biến số kinh tế, không chỉ nghiên cứu trong từng thời kỳ riêng lẻ, mà còn xét theo dạng chuỗi thời gian. Việc nghiên cứu này vừa có ý nghĩa thống kê, vừa có ý nghĩa kinh tế. Vì vậy, việc sử dụng các kết quả này cho mục đích kiểm định và dự báo rất đáng tin cậy. Và dựa vào kết quả nghiên cứu của hai ông, chúng tôi đã xây dựng mô hình để kiểm định tính hiệu lực thực tế của mối quan hệ PPP giữa VND và USD. Cuối cùng, kết quả kiểm định thống kê cho thấy, mối quan hệ PPP giữa VND và USD là không tồn tại trong thực tế, vì ngoài lạm phát thì tỷ giá hối đoái còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác như chênh lệch trong lãi suất, mức thu nhập, các biện pháp kiểm soát của Chính phủ hoặc không có hàng hóa thay thế cho hàng nhập khẩu… mà lý thuyết PPP đã bỏ qua. Vì vậy mà, ứng dụng mối quan hệ của PPP để kết luận về tính tương thích giữa lạm phát và biến động tỷ giá hối đoái ở Việt
Tăng giá đồng nội tệ chưa chắc đã dẫn đến tăng năng suất
Có quan điểm cho rằng, việc tăng giá đồng nội tệ sẽ dẫn đến tăng năng suất trong khu vực công nghiệp và nâng cao trình độ công nghệ của quốc gia. Đây là nhận định thiếu cơ sở về cả lý thuyết lẫn thực tiễn. Về lý thuyết, mối liên hệ giữa năng suất và tỷ giá diễn ra theo chiều ngược lại. Khi năng suất tăng lên, chi phí sản xuất trong khu vực công nghiệp giảm đi, do đó dẫn đến sức ép làm giảm giá hàng hóa. Nếu các yếu tố khác không đổi, giá hàng hóa nội địa giảm sẽ làm cho đồng nội tệ tăng giá tương đối. Như vậy, với hàng loạt giả định nếu và nếu (thị trường hoàn hảo, các yếu tố khác… không đổi) thì đồng nội tệ mới lên giá. Mà những chữ nếu này rất khó xảy ra trong thực tế. Còn chiều ngược lại, tăng giá đồng nội tệ sẽ dẫn đến năng suất khu vực công nghiệp tăng lên thì hoàn toàn không có cơ sở lý thuyết. Nói cách khác, đã có sự nhầm lẫn mối quan hệ tương quan thành mối quan hệ nhân quả: có tương quan nhưng không hẳn có mối quan hệ nhân quả. Ví như, có người mắc bệnh tim là do uống café, nhưng uống café thì không hẳn sẽ bị bệnh tim.
Một dẫn chứng được sử dụng để chứng minh cho quan điểm nói trên là trường hợp của Trung Quốc và Nhật Bản, khi hai quốc gia này có sự tăng tốc về phát triển công nghệ và năng suất đã dẫn đến sự tăng giá của đồng Nhân dân tệ và đồng Yên trong những năm 1960 - 1970. Kết quả này đúng như mô hình lý thuyết mà tôi đã đề cập ở phần trên. Nhưng như đã đề cập ở phần trên, chiều ngược lại thì không hẳn đúng.
Những lập luận cho rằng, tăng giá đồng nội tệ sẽ có tác dụng thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài hướng vào các ngành có tiềm năng tăng năng suất của nền kinh tế là cực kỳ chủ quan và phiến diện. Trong khi thực tế khách quan mà bất kỳ ai cũng nhận thấy là chính tình trạng tăng giá VND hiện nay đang là một trong những nguyên nhân chính hút dòng vốn nước ngoài vào để đầu tư trên chênh lệch lãi suất và biến động tỷ giá là một trong những tác nhân gây ra tình trạng lạm phát, là vấn đề cấp bách mà cả nền kinh tế đang đối phó. Trong khi đó, phát triển công nghệ và tăng năng suất là một quá trình và tốn rất nhiều thời gian. Chúng ta không thể chữa cháy ở đất liền bằng cách đi lấy nước ngoài biển.
Quan điểm trên cho rằng, việc nâng giá đồng nội tệ sẽ mang lại những hiệu quả tích cực cho xuất khẩu. Chúng tôi thật sự rất ngạc nhiên và không hiểu có sự nhầm lẫn nào ở đây không khi tăng giá đồng nội tệ lại làm kích thích xuất khẩu, trong khi các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đang thiệt hại hàng chục tỷ đồng trên một đơn hàng, chỉ vì VND tăng giá so với USD. Xuất khẩu đang khó khăn từng ngày, trong khi chiến lược tăng giá đồng tiền với những hiệu quả của nó còn trong vòng hoài nghi và chắc chắn sẽ mất rất nhiều thời gian. Ngược lại, những tác động tiêu cực của việc làm tăng giá VND hầu như khá rõ rệt, các doanh nghiệp xuất khẩu đang điêu đứng, người dân và cả nhà đầu tư đang dần mất niềm tin vào USD, một ngoại tệ được sử dụng chủ yếu ở Việt Nam, dẫn đến hiện tượng quay sang mua vàng làm giá vàng trong nước đang “sốt” và cao hơn giá thế giới.
Chống lạm phát - không có cách nhìn nào khác
Lập luận cho rằng, tăng giá VND sẽ làm tăng năng suất khu vực công nghiệp và có tác dụng chống lạm phát như quan điểm của một số chuyên gia đề xuất không thể là cách thức chống lạm phát hiện nay. Đối với tỷ giá, điều quan trọng là thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt để Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tăng thêm tính chủ động trong thực hiện chính sách tiền tệ trong bài toán chống lạm phát. VND lên giá trong một biên độ nào đó sẽ giúp cho NHNN không phải chịu nhiều áp lực mua vào USD. Nhưng điều này không có nghĩa là NHNN không cung ứng VND mua vào USD. Bởi nếu như thế, chúng ta sẽ càng đẩy VND lên giá và dòng vốn nước ngoài, nhất là tiền nóng “hot money” mang tính đầu cơ chảy vào, rất nguy hiểm cho nền kinh tế. Vì vậy, điều cần thiết trước mắt là NHNN phải tung tiền đồng ra mua vào USD cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Hành động này sẽ giúp tỷ giá VND/USD có lên, có xuống và do đó có nhiều rủi ro hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, để hạn chế bớt dòng vốn mang tính đầu cơ. Ngoài ra, cũng nên ban hành cơ chế kiểm soát vốn đối với dòng vốn ngắn hạn đang chảy ồ ạt vào nước ta.
Tuy nhiên, các giải pháp này chỉ mang tính ngắn hạn để đối phó với sức ép lạm phát trước mắt mà thôi, về lâu dài thì các chiến lược đúng đắn mới là động lực chính để cải thiện hiệu quả nền kinh tế, chứ không chỉ bằng tăng giá VND để thu hút công nghệ cao.