GS. Hoàng Đạo Kính: ứng xử với di sản trong bão đô thị hóa

Di sản đã và đang bị mai một, thậm chí xóa sổ trong cơn bão đô thị hóa. Cùng GS. Hoàng Đạo Kính lạm bàn về ứng xử với di sản, tìm lối đi cho di sản trong dòng chảy ồn ã của cuộc sống.

GS. Hoàng Đạo Kính

GS. Hoàng Đạo Kính

Thưa Giáo sư, “lối sống đô thị hóa đang nuốt di sản và văn hóa vật thể” từ lâu đã không còn là nguy cơ, cảnh báo, mà đã và đang là một sự thật hiển hiện ở nước ta. Theo Giáo sư, hiện trạng và việc “nuốt” di sản đang ở mức độ như thế nào?

Các nước trên thế giới đều đứng trước mâu thuẫn giữa phát triển đô thị và bảo tồn di sản. Nhưng ở Việt Nam, mâu thuẫn này còn lớn hơn nhiều.

Bản thân di sản ở Việt Nam vốn hết sức mỏng manh, khiêm tốn và không bền vững, ngay cả những di sản thời Pháp thuộc dù đẹp, duyên dáng nhưng hết sức mảnh dẻ. Di sản chịu đựng sự phát triển vũ bão của đô thị, trong khi nhận thức cộng đồng, cơ quan quản lý về việc duy trì các di sản trong đô thị hoàn toàn không tương xứng tầm văn hóa phải có.

Ngay cả khi có đầy đủ nhận thức, phương tiện và công cụ thì việc cân bằng giữa bảo tồn và phát triển cũng là việc rất khó. Đô thị và nông thôn đều đang bị biến dạng. Thực tế, hầu như các di sản ở đô thị,  ngay cả ở Thủ đô, không được an toàn. Nhiều văn hóa vật thể và di sản bị xem nhẹ, chọc thủng, làm rối loạn, phá vỡ, thậm chí xóa sổ.

Cơn bão đô thị hóa đã và đang xô đẩy những di sản văn hóa vật thể vào những cơn điêu đứng, thậm chí bị xâm hại, xóa sổ
 

Hiện trạng này ảnh hưởng đến xã hội, cộng đồng như thế nào, thưa ông?

Di sản là hương hoa, là diện mạo, là tâm hồn, là gương mặt, nhưng nó đang bị người ta xâm lấn, coi nhẹ. Nhưng trong cuộc phát triển ồ ạt các đô thị, đặc biệt về mặt không gian, nền văn hóa đô thị, sự thành thị hóa dân cư ồ ạt sẽ để lại hậu họa còn lớn hơn rất nhiều việc di sản bị mai một.  Tại Thủ đô Hà Nội rộng hơn 3.300 cây số vuông, cứ ba người dân thì có hai người làm ruộng, tức là có hai người không phải thành thị, và một người thành thị. Nhưng ngay cả 30% số dân được coi là thành thị ấy cũng có nhiều người không phải đã là thuần thị dân. Như vậy, có thể hiểu di sản văn hóa, thành thị hóa dân cư và văn hóa thành thị có mối quan hệ gắn bó với nhau chặt chẽ.

Có một thực tế là, người dân cũng thờ ơ với di sản và văn hóa vật thể, chẳng hạn ở đô thị, các ngôi đình, chùa, miếu mạo đều bị thu hẹp, chiếm dụng diện tích không gian, ở nông thôn thì quạnh vắng. Phải chăng bởi vì chính những di sản này, văn hóa vật thể này đã mất dần vị trí trong sinh hoạt cộng đồng?

Văn hóa vật thể ở nông thôn có cuộc sống của nó. Người nông dân cũng có những nhu cầu cuộc sống hiện đại, tiện nghi. Chúng ta ở thành thị thì hoài niệm, cứ tiếc nhà gỗ, nhà ba chái, nhưng trong điều tra của chúng tôi thì 90% người dân muốn nhà hiện đại khép kín, không dột nát, bền vững.

Người nông dân cũng không thích ở trong ngõ xóm, họ thích ra mặt đường, mặt ngõ… Hiện giờ đình ít có giá trị sinh hoạt cộng đồng vì người dân chỉ lên đình một hai lần một năm. Do đó, di sản hay văn hóa vật thể có vòng đời, vai trò của nó, nên để cuộc sống tự quyết định.

Vâng, trong sự phát triển, dù muốn giữ gìn di sản, nhưng không thể không tính tới phát triển kinh tế. Mà kinh tế, với mục tiêu sinh lời, lại không chùn bước trước rào cản nào. Nó tác động thế nào đến việc bảo tồn di sản ở đô thị, thưa Giáo sư?

Theo tôi, bảo tồn di sản chỉ là một vấn đề của phát triển đô thị. Lâu dài hơn, bức xúc hơn trong phát triển đô thị là phải đề ra chiến lược phát triển đô thị cân bằng, bền vững, đô thị phải có diện mạo của nó.

Diện mạo phải bao gồm cái đã trở nên quen thuộc, trở thành truyền thống, được nâng niu, gìn giữ, bao gồm di sản. Diện mạo cũng gồm cái mới, cái phát triển của đô thị, nhưng không làm mất cái truyền thống. Bây giờ, nhiều đường phố ở Hà Nội không khác gì đường phố ở Tuyên Quang, Yên Bái... như vậy thì diện mạo nằm ở đâu? Phố ở Thủ đô có nét gì là hồn vía, là phong vị Hà Nội? Phố ở Lào Cai, Lạng Sơn, Yên Bái mang nét gì là phố núi, hương rừng?

Trước hiện trạng mất bản sắc đô thị ở Thủ đô nói riêng và pha loãng bản sắc đô thị Việt Nam nói chung, theo ông, chúng ta nên ứng xử ra sao?

Lẽ ra phải phát triển quy hoạch đô thị theo phương thức thâm canh và quảng canh. Nghĩa là các khu di sản đô thị, các khu trung tâm lõi của phố cũ phải được ứng xử đặc biệt, phát triển theo chiều sâu, giữ gìn trong chừng mực cần thiết, cải tạo nâng cấp và phát triển tương thích với cái cũ một cách văn hóa. Đó là thâm canh.

Bên cạnh đó, trong nhu cầu bung ra phát triển rất nhanh, cần sự quảng canh nhưng không phải là sự băm vằm đất, đụng đến đâu cũng bán.

Năm ngoái, ông có thực hiện một cuộc triển lãm tranh tại đình Kim Ngân, phố Hàng Bạc. Tổ chức một cuộc triển lãm tranh trong không gian văn hóa di sản như thế, dụng ý và cảm xúc của ông ở sự kiện này như thế nào?

Tôi đã dành hơn 40 năm gắn bó với di sản văn hóa và những bức tranh của tôi cũng ảnh hưởng điều này, hướng sâu vào hoài niệm, hình bóng xưa. Dù vẽ hoa hay khung cảnh phố xá, đường làng... thì những bức tranh đều liên quan đến dĩ vãng. Vẽ hiện tại nhưng lại có hình bóng hôm qua, đó cũng là vết tích của tôi.

Giữa con phố Hàng Bạc đông đúc, chằng chịt người qua lại, cửa hàng, cửa hiệu, buôn bán tấp nập, giao thông đông đúc, triển lãm của tôi trong khuôn viên đình Kim Ngân như một ốc đảo yên tĩnh. Tôi cảm thấy rất hạnh phúc khi những bức tranh đầy hoài niệm của tôi được bày trong khung cảnh đó. Nó gắn bó hết sức tự nhiên với từng cảm thụ, từng tế bào di sản. Tôi đặt vào đó một nỗi niềm thấm thía trong tình trạng di sản đang tìm kiếm một lối đi trong cuộc sống quay cuồng hiện tại.

Tin bài liên quan