 
Bài 4: Sải bước của một Việt Nam tiên phong
Một Việt Nam - đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm và bạn bè chân thành, tham gia dẫn dắt các tiến trình hợp tác quốc tế - đang hiện diện.
Dấu ấn Hà Nội
Những ngày cuối tháng 10/2025, trong khán phòng lớn của Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres cất lời trang trọng: “Tôi xin cảm ơn Việt Nam đã đăng cai tổ chức lễ ký kết này và vai trò tiên phong của Việt Nam trong việc tập hợp chúng ta hôm nay”.
Sau 4 năm đàm phán phức tạp, Công ước Hà Nội - Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng đã được ký kết. Đây cũng là hiệp ước tư pháp hình sự đầu tiên sau hơn 2 thập kỷ của Liên hợp quốc, bổ sung cho Hiệp ước Tương lai và Hiệp ước Kỹ thuật số Toàn cầu, nhằm thu hẹp khoảng cách số và tăng cường hợp tác kỹ thuật số toàn cầu.
Phát biểu tại phiên khai mạc Lễ mở ký, Chủ tịch nước Lương Cường đã nhấn mạnh 3 thông điệp của Công ước Hà Nội. Một là, khẳng định cam kết định hình trật tự, bảo đảm an toàn, an ninh trong không gian mạng trên cơ sở luật pháp quốc tế. Hai là, đề cao tinh thần chia sẻ, đồng hành và hỗ trợ lẫn nhau, bởi chỉ khi cùng hợp tác, cùng nâng cao năng lực, chúng ta mới có thể bảo vệ không gian mạng ổn định và bền vững. Ba là, nhấn mạnh mục tiêu cao nhất của mọi nỗ lực là vì người dân, để công nghệ phục vụ đời sống, phát triển mang lại cơ hội cho tất cả và không ai bị bỏ lại phía sau trong tiến trình số hóa toàn cầu.
“Lễ mở ký Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng sẽ là cột mốc lịch sử, mở ra kỷ nguyên hợp tác mới trong nỗ lực bảo vệ hòa bình, ổn định và phát triển bền vững của nhân loại; Công ước Hà Nội sẽ thật sự trở thành ngọn hải đăng soi đường cho sự hợp tác toàn cầu về an ninh mạng, đưa thế giới đến mục tiêu Công nghệ vì con người, số hóa vì hòa bình”, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an Lương Tam Quang nhấn mạnh tại phiên bế mạc Lễ mở ký Công ước Hà Nội.
Việc Lễ mở ký Công ước Hà Nội thành công cũng là kết quả cụ thể thực hiện chủ trương đối ngoại của Đảng, đặc biệt là bước quan trọng triển khai Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Thế đứng Việt Nam
Chuyến thăm Việt Nam lần này của ông António Guterres không chỉ dừng ở Lễ ký Công ước Hà Nội mà Việt Nam đăng cai và cũng là quốc gia đầu tiên đặt bút ký.
Dịp này, Liên hợp quốc kỷ niệm 80 năm thành lập (24/10/1945), cũng trùng với 80 năm Quốc khánh Việt Nam. Trong quá trình đó, từ một nước nghèo, gia nhập Liên hợp quốc vào năm 1977, phải nhận viện trợ của Liên hợp quốc, Việt Nam đã trưởng thành, đạt được những thành tựu rất đáng tự hào và đang nỗ lực hết sức mình vì công việc chung, vì hòa bình, phát triển và lợi ích của người dân.
Hiện tại, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với hơn 230 quốc gia, vùng lãnh thổ; ký kết và triển khai 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có nhiều FTA thế hệ mới. Việt Nam đã có mặt trong nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất và thu hút đầu tư nước ngoài hàng đầu thế giới. Việt Nam cũng đã trở thành mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế thông qua hơn 500 hiệp định song phương và đa phương...
TS. Võ Trí Thành, chuyên gia về hội nhập quốc tế đã gọi đó là “quả ngọt” từ vị thế Việt Nam. Dù chưa phải là nước giàu hay cường quốc công nghệ, nhưng vị trí địa chính trị, giá trị và những thành tựu của Đổi mới đã tạo nên thế đứng vững vàng cho Việt Nam trên bản đồ quốc tế. Tuy nhiên, TS. Thành cũng nói, vẫn còn những việc cần tiếp tục hoàn thiện, từ chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tăng cường đổi mới sáng tạo đến cải cách thể chế, nâng cấp hạ tầng và nguồn nhân lực.
“Gốc rễ của công cuộc cải cách, đổi mới là mở rộng không gian phát triển - để người dân và doanh nghiệp có không gian cạnh tranh, có cơ hội vươn lên, bắt kịp thời đại. Quá trình này đòi hỏi sự gắn bó mật thiết giữa cải cách trong nước, những đổi mới mang tính đột phá với mở cửa, hội nhập. Trong bối cảnh địa chính trị phức tạp như hiện nay, việc này đòi hỏi chúng ta phải khéo léo, bản lĩnh, quyết liệt và khoa học hơn”, TS. Võ Trí Thành bày tỏ quan điểm.
Đây là lý do ông Thành đặt kỳ vọng vào việc triển khai Nghị quyết 59-NQ/TW.
Một mặt, Nghị quyết nêu rõ những giải pháp lớn của chính sách hội nhập trong tình hình mới là nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế để phục vụ cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thúc đẩy chuyển đổi số. Điều quan trọng, tư duy và những giải pháp đột phá của Nghị quyết 59-NQ/TW được thực hiện cùng lúc với các nghị quyết trong “bộ tứ trụ cột” của Bộ Chính trị và 3 nghị quyết mới được ban hành (là Nghị quyết 70-NQ/TW bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo và Nghị quyết 72-NQ/TW về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân).
Khi quán triệt Nghị quyết 59-NQ/TW, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Hội nhập quốc tế là động lực chiến lược trên cơ sở nội lực có vai trò quyết định, gia tăng nội lực đi đôi với tranh thủ ngoại lực, gắn kết chặt chẽ hội nhập với bảo vệ lợi ích quốc gia, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Bảo đảm các nguyên tắc về tâm thế, vị thế mới, tư duy và cách tiếp cận mới về hội nhập quốc tế, chuyển từ tư duy tiếp nhận sang tư duy đóng góp, từ hội nhập chung sang hội nhập đầy đủ, từ vị thế một quốc gia đi sau sang trạng thái một quốc gia vươn lên, tiên phong vào những lĩnh vực mới”.
Nhưng Tổng Bí thư cũng làm rõ, động lực phát triển mới của đất nước hình thành từ chính các mối liên kết hữu cơ giữa các nghị quyết. Trong đó, hội nhập quốc tế là cánh cửa vươn ra thế giới, năng lượng ổn định và xanh là điều kiện cần cho sản xuất, cho trường học, bệnh viện, giáo dục - đào tạo chất lượng cao cung cấp đội ngũ kỹ sư hệ thống, bác sĩ, nhà quản trị dịch vụ công tương lai và y tế hiện đại, dự phòng vững, chăm sóc tốt giúp người dân khỏe mạnh để học, để làm, để sáng tạo.
Những trụ đỡ này được củng cố đồng thời bằng thể chế thông suốt, kỷ luật thực thi nghiêm, dữ liệu dẫn dắt và phân bổ nguồn lực thông minh. Khi từng bánh răng vận hành đúng nhịp, cỗ máy phát triển quốc gia sẽ tăng tốc bền bỉ...
Có thể thấy, tư duy đã thông, tầm nhìn đã rõ, khát vọng rất lớn, nhưng để thực hiện, chắc chắn sẽ còn nhiều vất vả.
Liên quan đến quá trình thực thi, TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam đặt rất nhiều câu hỏi về việc thể chế hóa kịp thời tinh thần của các nghị quyết, bởi chỉ có vậy, mới đưa tư duy, giải pháp đột phá vào cuộc sống, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế phát triển bền vững.
Quốc hội, Chính phủ đang thực thi rốt ráo. Chỉ riêng kỳ họp thứ mười, Quốc hội khóa XV - kỳ họp cuối cùng của nhiệm kỳ 2021-2026 đang diễn ra, số văn bản luật, nghị quyết dự kiến sẽ xem xét, thông qua lên tới 53. Đây là khối lượng công tác lập pháp lớn nhất trong lịch sử các kỳ họp Quốc hội. Các dự án luật bao quát hầu hết các lĩnh vực trọng yếu, nhiều vấn đề mới, biến động liên tục; kịp thời thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết mới của Đảng, tập trung tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, nhất là trong lĩnh vực đất đai, đầu tư, quy hoạch, xây dựng, môi trường, năng lượng; lành mạnh hóa thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản…
Song, vẫn đang có thêm những thay đổi lớn. Đơn cử, những nguyên tắc cơ bản về an ninh quốc gia, quốc phòng và chủ quyền lãnh thổ có phải có những chuẩn chỉnh cho phù hợp, khi khái niệm chủ quyền không chỉ nằm ở biên giới vật lý, mà còn mở rộng sang không gian mạng, dữ liệu số, đồng tiền số, hay tài sản số… “Tình hình mới đòi hỏi chúng ta luôn phải có cách tiếp cận mới, chủ động hơn trong hội nhập”, TS. Bình phân tích.
Đây cũng chính là không gian để Việt Nam chuyển đổi vị thế từ một quốc gia tham gia cuộc chơi sang quốc gia có tiếng nói, như mục tiêu chiến lược của Nghị quyết 59-NQ/TW.
… và lựa chọn tiên phong
Trở lại Lễ mở ký Công ước Hà Nội. Đây là một cột mốc quan trọng trong hành trình chung của thế giới hướng tới một thế giới số an toàn hơn. Nhưng Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres khẳng định: Đó mới chỉ là khởi đầu. Sức mạnh thực sự của Công ước sẽ nằm ở việc biến cam kết thành hành động cụ thể.
Hành trình hội nhập tầm cao của Việt Nam cũng vậy, đang sải bước, với tư duy của một Việt Nam là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm và bạn bè chân thành, tham gia dẫn dắt các tiến trình hợp tác quốc tế.
Hơn thế, Việt Nam cũng nhận diện rõ yêu cầu của xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động hội nhập quốc tế, như Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội XIV của Đảng xác định trong nhiệm vụ xác lập mô hình tăng trưởng mới.
Nếu chúng ta không chuẩn bị kỹ càng, chủ động về nền tảng sản xuất, trụ đỡ năng lượng xanh, hiện đại, thì hội nhập sẽ khó mang lại kết quả như kỳ vọng.
Ngay sau Lễ mở ký Công ước Hà Nội, hoạt động đối ngoại của Việt Nam bước vào một nhịp sôi động chưa từng có. Tổng Bí thư Tô Lâm thực hiện chuyến thăm chính thức Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland, tiếp nối các chuyến thăm cấp Nhà nước tới Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Phần Lan và Bulgaria trước đó, khẳng định tầm nhìn đối ngoại rộng mở, nhất quán và thực chất.
Từ ngày 29/10 đến ngày 1/11/2025, Chủ tịch nước Lương Cường sẽ tham dự Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ 32 tại Hàn Quốc, nơi Việt Nam tiếp tục thể hiện tiếng nói trách nhiệm về phát triển bền vững và kinh tế xanh. Trước đó, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 47 và các đối tác tại Malaysia...
Những chuyến công du dày đặc thể hiện tầm vóc và nhịp mới của ngoại giao Việt Nam, là sự cụ thể hóa sinh động tinh thần Nghị quyết 59-NQ/TW - triển khai nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả - như Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra.
(Còn tiếp)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
