Tuy nhiên, hậu quả của việc tạm dừng cấp giấy phép, cũng như việc các tổ chức, cá nhân hoặc từ bỏ hoặc tiếp tục chờ đợi chính sách để theo đuổi kế hoạch thành lập ngân hàng được đánh giá là rất nặng nề. Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), hiện có 8 ngân hàng đã được chấp thuận về mặt nguyên tắc thành lập. Để được cấp giấy phép chính thức, những ngân hàng này phải chuẩn bị không ít nhân lực, vật lực. Trưởng ban trù bị một ngân hàng cho hay, chi phí các cổ đông bỏ ra rất lớn, gồm tiền lương, chi phí thuê văn phòng, triển khai hệ thống công nghệ thông tin, mua máy móc thiết bị, đặc biệt là trả lương cho đội ngũ cán bộ khung. Theo quy định của NHNN, chức danh trưởng phòng cũng phải báo cáo, vì vậy ngân hàng đã tuyển dụng và trả lương không kém các ngân hàng đang hoạt động để hoàn thiện bộ máy.
Đơn cử như Ngân hàng Hồng Việt, khoản chi phí đã đầu tư ước tính hàng trăm tỷ đồng và đội ngũ nhân sự đã tuyển dụng là gần 150 người. Đề cập đến việc giải quyết các vấn đề sau khi Ngân hàng không còn "vẹn nong, vẹn nia", ông Nguyễn Hồng Sự, Phó tổng giám đốc Petro Vietnam cho biết, toàn bộ khoản đầu tư của Petro Vietnam vào việc thành lập Ngân hàng Hồng Việt và cả con người đều được chuyển sang thực hiện tái cấu trúc Ngân hàng Dầu khí Toàn cầu (GP Bank); chi phí đã bỏ ra sẽ tính toán và chia đều theo tỷ lệ vốn góp của các cổ đông, điều này có nghĩa là, cổ đông xin rút vốn không thể nhận được số tiền bỏ ra ban đầu.
Trường hợp của Hồng Việt còn may ở chỗ, Petro Vietnam có một địa chỉ khác là GP Bank để chuyển khoản đầu tư sang, còn những ngân hàng khác xử lý ra sao với hệ thống công nghệ, trụ sở? Chả nhẽ lại bán rẻ (mà chưa chắc đã có người mua)? Có thể nói, đây là khoản lãng phí không nhỏ. Vấn đề nhân sự cũng là một câu chuyện khó giải quyết. Trưởng ban trù bị một ngân hàng (vốn là tổng giám đốc một ngân hàng TMCP đang hoạt động) cho biết, ông đang đứng trước hai sự lựa chọn: thứ nhất là đồng hành cùng các cổ đông khi họ tiếp tục theo đuổi kế hoạch thành lập ngân hàng mới; thứ hai là ra đi tìm một chốn khác. Với ông, tìm vị trí và chỗ đứng là chuyện nhỏ, song với gần trăm nhân sự khác thì không hề đơn giản. Quan trọng hơn, nếu tiếp tục theo đuổi kế hoạch, do tiêu chí thành lập ngân hàng mới còn đang được nghiên cứu, nên những cam kết với người lao động khó rõ ràng, điều này tối kỵ với những người lãnh đạo và có thể gây ra tâm lý nặng nề cho chính những lao động này.
Một mớ bòng bong khác là tiền của các cổ đông và những NĐT mua lại cổ phần "trên giấy" của những ngân hàng đã được chấp thuận về nguyên tắc thành lập sẽ giải quyết ra sao? Hồng Việt có tới 18 pháp nhân sáng lập và hơn 42.000 cổ đông cá nhân; Bảo Việt có vài nghìn cổ đông, trong đó có cả cán bộ, công nhân viên; tương tự là những ngân hàng khác. Về nguyên tắc, nếu ngân hàng không được thành lập, cổ đông sẽ được trả lại tiền, sau khi trừ chi phí. Nhưng do chuyển nhượng lòng vòng (theo thông tin ĐTCK có được, không chỉ cá nhân, mà có cả cổ đông pháp nhân cũng chuyển nhượng vốn góp), việc xử lý quyền lợi, trách nhiệm không đơn giản và việc trả lại tiền chỉ được thực hiện với chính NĐT có tên trong danh sách cổ đông.
Hỏi ban trù bị các ngân hàng về việc quyết định dừng hay tiếp tục theo đuổi kế hoạch thành lập ngân hàng, câu trả lời không dễ nhận được, bởi họ chỉ là người hiện thực hóa công tác chuẩn bị, còn quyết định chính nằm trong tay các cổ đông lớn. Với các cổ đông này, nhất là những tập đoàn, tổng công ty, ra một quyết định có thể tiêu tốn hàng chục tỷ đồng sẽ khó quyết định trong ngày một, ngày hai. Do đó, chừng nào chưa có câu trả lời, lãng phí có thể tiếp tục nhân lên.
Câu chuyện này một lần nữa cho thấy, việc ồ ạt đổ vốn vào những lĩnh vực nóng theo phong trào đang phải trả giá, song cũng đặt ra câu hỏi: bao giờ thì có thể hạn chế tối đa rủi ro chính sách mà các NĐT phải chấp nhận? Một chuyên gia kinh tế nêu vấn đề: nếu như tháng 6/2007, NHNN không "bật đèn xanh" cho những bộ hồ sơ xin thành lập ngân hàng mới, liệu nguồn lực có lãng phí và khó giải quyết như hiện nay? Sự ổn định của chính sách đang là mong muốn của NĐT. Trước mắt, NHNN cần sớm hoàn thiện các tiêu chí kỹ thuật một cách rõ ràng và sẵn sàng cấp phép trong trường hợp hồ sơ đáp ứng được yêu cầu.