Nhà đầu tư điện khí, điện gió ngoài khơi mong các chính sách hỗ trợ, gỡ khó

0:00 / 0:00
0:00
Nhiều doanh nghiệp cho rằng, việc triển khai các dự án điện khí LNG vẫn không dễ, bởi đòi hỏi nguồn vốn khổng lồ và cần các cơ chế chính sách hỗ trợ mạnh mẽ.
Hiện còn vướng mắc về cơ chế, chính sách trong phát triển điện khí LNG và điện gió ngoài khơi. Trong ảnh: Kho cảng LNG Thị Vải

Hiện còn vướng mắc về cơ chế, chính sách trong phát triển điện khí LNG và điện gió ngoài khơi. Trong ảnh: Kho cảng LNG Thị Vải

Thách thức 16 triệu tấn LNG nhập khẩu hàng năm

Tại Hội thảo “Chuyển dịch năng lượng: Tầm nhìn và Hành động”, ông Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam cho biết, Chính phủ và Bộ Công thương đã có nhiều nỗ lực nhằm tháo gỡ vướng mắc cho các dự án điện khí LNG. Tuy vậy, các quy định hiện hành vẫn chưa đủ để tháo gỡ các nút thắt trong đàm phán hợp đồng mua bán điện (PPA).

Theo thống kê của Hội Dầu khí, ngoài dự án điện khí LNG Nhơn Trạch 3 và Nhơn Trạch 4 (công suất 1.624 MW) đã hoàn tất đầu tư và đang chạy thử, chỉ có nhà máy Hiệp Phước 1 (1.200 MW) dự kiến vận hành năm 2026, nhưng đến nay vẫn chưa đàm phán xong PPA.

Ngoài ra, còn 12 dự án điện khí LNG khác đang trong quá trình đầu tư xây dựng, trong đó 9 dự án với tổng công suất 16.400 MW đã có nhà đầu tư và 3 dự án tổng công suất 4.500 MW đang tìm nhà đầu tư.

Chủ tịch Hội Dầu khí cũng liệt kê hàng loạt vướng mắc về cơ chế, chính sách trong phát triển điện khí LNG. Cụ thể, chưa có cơ sở pháp lý để thay thế bảo lãnh Chính phủ khi vay vốn hoặc thu xếp vốn cho các dự án BOT hoặc nhà máy điện độc lập (IPP); chưa có cơ chế bảo lãnh, bảo đảm chuyển đổi ngoại tệ và nghĩa vụ thanh toán quốc tế cho LNG nhập khẩu.

Bên cạnh đó, quy hoạch hệ thống hạ tầng từ kho cảng đến tồn trữ LNG vẫn thiếu đồng bộ và chưa đầy đủ.

Ở nhóm thách thức khác, đáng chú ý là thị trường tiêu thụ điện khí LNG tăng trưởng chậm hơn so với mục tiêu trong Quy hoạch Điện VIII và bản điều chỉnh; việc xây dựng kho cảng LNG tập trung chưa có quyết sách rõ ràng; chưa có mẫu hợp đồng PPA chuẩn cho các dự án BOT và IPP; vấn đề thu xếp vốn gặp khó do thiếu cơ chế bao tiêu, cam kết đầu ra.

Đại diện Tổng công ty Khí Việt Nam (PV Gas) cho biết, hiện chưa có cơ chế để Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cam kết tiêu thụ LNG nhập khẩu dài hạn và chưa có cơ chế đàm phán trực tiếp với các nhà cung cấp LNG. Bên cạnh đó, dù thị trường Việt Nam còn nhỏ, nhưng lại có nhiều đầu mối nhập khẩu LNG, làm giảm sức mua và lợi thế đàm phán của các bên mua trong nước.

Theo tính toán của PV Gas, 15 nhà máy điện khí LNG với tổng công suất 22.524 MW đi vào vận hành sẽ khiến nhu cầu LNG nhập khẩu hàng năm lên đến 16 triệu tấn. Nếu tính thêm các nhà máy điện khí hiện hữu chuyển sang dùng LNG do thiếu nguồn khí nội địa, tổng nhu cầu có thể vượt 26 triệu tấn/năm.

Nhu cầu lớn này đòi hỏi nguồn vốn khổng lồ và cần các cơ chế chính sách hỗ trợ mạnh mẽ thì mới có thể đạt mục tiêu về công suất điện khí LNG vào năm 2030.

Điện gió ngoài khơi: Vẫn mênh mông

Cuối tháng 6/2025, Tổng công ty Xây dựng Lũng Lô (Bộ Quốc phòng) đề xuất đầu tư 11 tổ hợp dự án điện gió ngoài khơi với tổng quy mô khoảng 9.000 MW tại 3 khu vực biển: Bắc Bộ, Nam Trung Bộ và Nam Bộ, đồng thời đề nghị cơ quan chức năng chấp thuận chủ trương đầu tư.

Doanh nghiệp này cũng đề xuất thêm 14 dự án điện gió ngoài khơi khác và kiến nghị được sớm tổ chức lựa chọn nhà đầu tư theo quy định. Tổng công ty Lũng Lô cam kết tuân thủ đầy đủ quy định pháp luật và nội dung tại quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư, đồng thời tự chịu mọi chi phí và rủi ro nếu dự án không được chấp thuận.

Việc một doanh nghiệp 100% vốn nhà nước như Lũng Lô đề xuất chấp thuận đầu tư được Bộ Công thương đánh giá là phù hợp theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 28, Luật Điện lực số 61/2024/QH15.

Tuy nhiên, hồ sơ của doanh nghiệp vẫn còn nhiều thiếu sót. Cụ thể, văn bản đề xuất chưa có thông tin và chữ ký của người đại diện pháp luật; mục tiêu dự án chưa làm rõ việc có bán điện lên lưới điện quốc gia hay không. Các tài liệu chứng minh năng lực tài chính của nhà đầu tư cũng chưa đầy đủ: thiếu báo cáo tài chính 2 năm gần nhất, cam kết tài chính của công ty mẹ hoặc tổ chức tín dụng, hay các bảo lãnh năng lực tài chính. Thêm vào đó, hồ sơ cũng chưa làm rõ hình thức lựa chọn nhà đầu tư, nguồn vốn và phương án huy động vốn; chưa có thông tin về khảo sát theo điểm b, khoản 1, Điều 28, Luật Điện lực.

Trước đó, Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng quốc gia (Petrovietnam) cũng đề nghị được giao khảo sát khu vực biển Nam Trung Bộ sau khi một đơn vị thành viên là PTSC đã nhận được hai giấy phép khảo sát tại khu vực Nam Bộ, phục vụ dự án xuất khẩu điện.

Bộ Công thương cho biết, tổ hợp điện gió ngoài khơi Nam Trung Bộ 1 hiện chưa có hoặc chưa xác định chủ đầu tư nên đề xuất khảo sát của Petrovietnam là phù hợp. Tuy nhiên, khu vực biển này trùng với 2 hồ sơ khác đang đề nghị khảo sát của Công ty Pacifico Energy Việt Nam và Công ty CI GMF II Cooperatief U.A. Đến nay, vẫn chưa có doanh nghiệp nào chính thức được giao khảo sát khu vực này.

Theo ông Nguyễn Thái Hà, Tổng giám đốc Tập đoàn Năng lượng T&T, việc thực hiện mục tiêu công suất điện gió ngoài khơi theo Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh đang đối mặt với nhiều rào cản.

Các thách thức được nêu gồm: hành lang pháp lý và cơ chế chính sách chưa hoàn thiện; hạ tầng kỹ thuật và chuỗi cung ứng chưa sẵn sàng; quy hoạch lưới điện thiếu đồng bộ; thiếu nhân lực có kinh nghiệm, chất lượng cao…

“Hiện chưa có quy định cụ thể về quy hoạch không gian biển, trình tự cấp phép khảo sát và phát triển điện gió ngoài khơi. Trong khi đó, vấn đề chồng lấn khu vực biển chưa được giải quyết; các vùng biển tiềm năng và tiêu chí phát triển điện gió ngoài khơi chưa được công bố, khiến quá trình thực hiện bị chậm trễ”, ông Hà nhận xét.

Theo tính toán của EVN, suất đầu tư cho điện gió ngoài khơi lên tới khoảng 93 tỷ đồng/MW, cao hơn nhiều so với các dạng năng lượng tái tạo khác như điện mặt trời, điện sinh khối... Do đó, các nhà đầu tư vẫn còn e ngại khi cơ chế hỗ trợ chưa rõ ràng.

Tin bài liên quan