Tăng vốn ồ ạt nhất trong thời điểm hiện tại và sắp tới là khối ngân hàng thương mại cổ phần. Hàng loạt ngân hàng thương mại cổ phần như ACB, Sacombank, Đông Á, Eximbank, Phương Đông... thi nhau tăng vốn hoặc phát hành thêm cổ phiếu. Theo sau là các Cty chứng khoán từ lớn đến nhỏ như SSI, SBS, BVSC, Đại Việt... và ít có doanh nghiệp (DN) nào chịu tăng vốn thông qua phát hành thêm cổ phiếu ít hơn 100 tỷ.
Điều ấy đồng nghĩa với việc đa số các doanh nghiệp trên tung ra thị trường ít nhất là 10 triệu cổ phiếu/ doanh nghiệp. Chỉ tính riêng các tổ chức niêm yết thì đã có gần 100 doanh nghiệp chọn phương án trên, nhiều đến nỗi “Cty nào không tăng vốn, phát hành cổ phiếu mới là chuyện lạ”. Thời gian đầu các cổ đông, nhà đầu tư rất hào hứng và vui mừng ra mặt với các cổ phiếu với giá ưu đãi nhưng gần đây do doanh nghiệp nào cũng “lạm dụng” hình thức này nên thị trường đã có dấu hiệu “bội thực”.
Việc hàng loạt cổ phiếu ngân hàng thương mại cổ phần, Cty chứng khoán giảm giá mạnh không chỉ vì tình hình chung mà do cung lớn hơn cầu quá nhiều đang khiến cả doanh nghiệp lẫn nhà đầu tư, cổ đông “dở khóc dở cười”. Tổng giám đốc một Cty chứng khoán lý giải: “ Cổ phiếu của Cty có thương hiệu được bán ra với giá gấp cả 10 lần mệnh giá. Doanh nghiệp chỉ cần tăng vốn điều lệ thêm 100 - 200 tỷ đồng thì tiền bán cổ phiếu đã có thể thu về hàng nghìn tỷ đồng”.
Hơn nữa, ông Đỗ Văn Trắc, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng giám đốc Sacom từng nói “phát hành cổ phiếu có lợi hơn vay ngân hàng”. Nếu vay ngân hàng lãi suất ưu đãi thấp nhất cũng 10%/ năm và có kỳ hạn, còn phát hành cổ phiếu thì thông thường chỉ 20%/ mệnh giá, nhưng với việc giá cổ phiếu cao gấp 10 - 20 lần mệnh giá như hiện nay thì các doanh nghiệp chỉ thực sự trả lãi 1 - 2% với thời hạn vô hạn, nếu làm ăn thua lỗ họ lại có quyền chẳng trả đồng lãi nào.
Ai là người được lợi?
Tuy nhiên, Tiến sĩ Lê Thẩm Dương, Trưởng khoa Quản trị kinh doanh Đại học Ngân hàng TP HCM cho rằng: “Sẽ là sai lầm nếu doanh nghiệp do phát hành cổ phiếu quá dễ đã tăng vốn chủ sở hữu và chủ yếu dựa vào vốn này để kinh doanh”.
Ông Dương nói thêm: “Nhiều doanh nghiệp vừa qua phát hành thêm cổ phiếu mà trong đó một phần tiền thu được dùng để trả nợ ngân hàng, đầu tư tài chính... tức nằm ngoài mục tiêu chính là đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh”.
Với việc nhiều doanh nghiệp cổ phần đang bị HĐQT “thao túng” như hiện nay thì đa số cổ đông chỉ cần biết phương án phát hành cổ phiếu như thế nào, có bán giá ưu đãi cho cổ đông hiện hữu như mình hay không. Ít ai quan tâm đòi hỏi doanh nghiệp chứng minh tính khả thi của dự án, sự cân đối về cơ cấu tài chính sau khi tăng vốn từ việc phát hành. Họ chủ yếu chỉ quan tâm đến việc mình sẽ có bao nhiêu cổ phiếu để bán kiếm lời nên việc phát hành thêm cổ phiếu khá thuận lợi và hầu hết cổ đông, các nhà đầu tư đều rất sẵn sàng bỏ tiền mua cổ phiếu.
Trong thời gian qua, việc phát hành thêm cổ phiếu, người được lợi lớn là những người nắm giữ cổ phần chi phối, những cổ đông chủ chốt và cổ đông lớn, nhất là các vị trong HĐQT. Vì vậy không lạ gì họ là thành phần ủng hộ và tìm mọi cách để tăng vốn, phát hành cổ phiếu. Các cổ đông hiện hữu thường được mua theo giá bằng mệnh giá và được hưởng giá trị chênh lệch từ việc giá tăng cao. Các nhà đầu tư bên ngoài thì mua theo hình thức đấu giá hoặc giá do HĐQT quyết định nên doanh nghiệp có thêm khoản thặng dư vốn nên cả hai cùng có lợi.
Ông Bùi Văn Tuynh, Tổng Giám đốc Cty chứng khoán Đại Việt lo ngại: “Thi nhau phát hành cổ phiếu, tăng vốn trong thời điểm hiện nay mà không tính toán kỹ mục đích, hiệu quả kinh doanh thì về lâu dài người gặp bất lợi sẽ là cổ đông”.
Việc doanh nghiệp huy động vốn từ TTCK là hình thức khá phù hợp và đó cũng là mục đích của cổ phần hoá, sự ra đời của TTCK. Nhưng việc doanh nghiệp nào cũng thi nhau phát hành cổ phiếu chỉ vì mục đích, lợi ích ngắn hạn có phải là một cách không “nhìn xa, trông rộng” và Bộ Tài chính, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước vẫn cứ chấp nhận tất cả hồ sơ xin tăng vốn?