Thành lập ngân hàng mới
Tại Ngân hàng Nhà nước hiện có hơn 20 hồ sơ xin thành lập mới ngân hàng. Nếu tính mỗi ngân hàng mới có vốn điều lệ tối thiểu theo quy định là 1.000 tỷ đồng tức là khoảng 20.000 tỷ đồng đang sẵn sàng đổ vào cho hoạt động thành lập mới ngân hàng. Xu thế thành lập ngân hàng mới trong giai đoạn hiện nay được cho là vì lợi nhuận của các ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) đang tăng cao; đồng thời, cổ phiếu ngân hàng hiện có sức hấp dẫn nhất trên TTCK. Tuy nhiên, kinh doanh ngân hàng không phải chỉ toàn màu hồng, có tới 17 ngân hàng đã phải ngừng hoạt động trong thời gian qua vì thua lỗ, phá sản. Không biết con số này có ý nghĩa nào đối với những ngân hàng xin thành lập mới hay không, nhưng với tình trạng chuyển đổi ngân hàng nông thôn thành ngân hàng đô thị (như Ngân hàng TMCP Ninh Bình, Kiên Giang...) và xin thành lập ngân hàng mới của các địa phương (như Nam Định, Bắc Ninh...) kèm theo xu hướng các tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn (như Dầu khí, Viễn thông, FPT, Bảo Việt...) cũng xin thành lập ngân hàng cho thấy, phong trào “nhà nhà làm ngân hàng, ngành ngành làm ngân hàng” đang có nguy cơ tái diễn như nhà máy bia, nhà máy xi măng trước đây.
Tăng vốn điều lệ
Việc chạy đua tăng vốn một phần nhằm đáp ứng quy định của Ngân hàng Nhà nước; mặt khác, TTCK đang trong giai đoạn phát triển nên việc tăng vốn của các ngân hàng gặp nhiều thuận lợi. Hầu hết ngân hàng TMCP đều có kế hoạch tăng vốn điều lệ trong năm 2007. Một số ngân hàng có kế hoạch tăng vốn mạnh như ABBank tăng thêm 3.870 tỷ đồng; Sacombank tăng thêm 2.360 tỷ đồng; ACB tăng thêm 1.500 tỷ đồng, VIB tăng thêm 1.500 tỷ đồng… Theo thống kê chưa đầy đủ, kế hoạch tăng vốn điều lệ của 20 ngân hàng trong năm 2007 sẽ “ngốn” khoảng 30.000 tỷ đồng (tính theo mệnh giá) và con số này sẽ tăng gấp vài lần khi phát hành ra thị trường. Các ngân hàng đồng loạt tăng vốn điều lệ sẽ trở thành gánh nặng cho việc sử dụng hiệu quả đồng vốn. Mức độ tăng trưởng của nền kinh tế cũng có giới hạn, khi mà tất cả cùng dự báo mức lợi nhuận cao, tức là đã chia nhau thị phần của mức lợi nhuận này, dẫn đến sẽ có ngân hàng thắng và ngân hàng thua trong việc tăng vốn điều lệ.
Đấu giá cổ phần lần đầu
Đợt đấu giá cổ phần của ngân hàng quốc doanh đầu tiên - Vietcombank sẽ diễn ra vào tháng 8/2007; BIDV và Viettinbank dự kiến vào quý IV- 2007. Cổ phiếu có tính thanh khoản cao trên thị trường, cũng như kết quả kinh doanh ấn tượng trong quý I/2007 của một số ngân hàng TMCP sẽ là những yếu tố thu hút nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia các đợt IPO này. Các ngân hàng thương mại quốc doanh có quy mô lớn, giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam nên các đợt IPO này (đặc biệt là của Vietcombank) sẽ ảnh hưởng nhiều đến giá cổ phiếu của các ngân hàng đang có cổ phiếu được giao dịch, trong đó có ACB và Sacombank. Với đợt đấu giá của nhiều ngân hàng thương mại nhà nước trong năm 2007 cùng với việc thành lập ngân hàng mới và tăng vốn điều lệ, nhà đầu tư hoàn toàn không lo thiếu “hàng”, cơ hội để lựa chọn cổ phiếu ngân hàng tốt còn nhiều. Quan trọng là nên có sự chọn lọc khi đầu tư vào cổ phiếu ngân hàng, theo lời khuyên của các chuyên gia là hãy ưu tiên ngân hàng loại A trước, rồi đến loại B, loại C và D cần xem xét kỹ.
Nếu nói về nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế thì dù NHNN có đồng ý cho tất cả những ngân hàng xin thành lập mới cũng như tăng vốn cũng không đáp ứng nổi nhu cầu này. Tuy nhiên, NHNN vẫn cân nhắc, kéo dài thời gian cấp phép là vì nhiều lý do, trong đó, bản thân các ngân hàng cần phải đáp ứng được các điều kiện đặt ra để có thể sử dụng hiệu quả đồng vốn. Tình hình hiện nay cho thấy, DN ngành ngân hàng vẫn phải chịu nhiều áp lực lớn, tập trung lại sẽ là những vấn đề sau:
- Cạnh tranh về nhân lực, năng lực quản trị. Nhân lực là yếu tố then chốt. Ngân hàng thành lập nhiều, tăng vốn nhiều nên cần có nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu sử dụng vốn hiệu quả, đặc biệt là nhân lực cao cấp. Trong tình hình các ngân hàng nước ngoài luôn có chế độ đãi ngộ tốt hơn so với ngân hàng trong nước thì sự khan hiếm về nhân lực sẽ là bài toán khó giải đối với những ngân hàng mới thành lập.
lĐa phần ngân hàng trong nước có quy mô nhỏ, nên mỗi ngân hàng chỉ chiếm một thị phần nhỏ hoặc chỉ đáp ứng được một vài dịch vụ đơn lẻ. Từ đó dẫn đến các ngân hàng thiếu sức mạnh và thiếu tính chuyên nghiệp. Ví dụ hệ thống ATM hiện nay đều do các ngân hàng tự xây dựng riêng lẻ, dẫn đến tốn nhiều chi phí nhưng không thuận lợi đối với khách hàng.
- Chiến lược kinh doanh của một số ngân hàng dễ nhận thấy là do yếu tố cổ đông lớn chi phối (Ngân hàng An Bình tăng vốn mạnh vì có hàng loạt các dự án của ngành điện, Tổng công ty Điện lực Việt Nam nắm 30% vốn của ABBank) hoặc theo phong trào trên thị trường như lập công ty tài chính, công ty bất động sản, công ty chứng khoán.... Do vậy, hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng này chịu ảnh hưởng từ tình hình kinh doanh của cổ đông lớn, hoặc tình hình tài chính, chứng khoán, bất động sản.
- Cạnh tranh giữa các ngân hàng nội. Sự cạnh tranh này hình thành từ ngay trong quá trình góp vốn, tìm kiếm đối tác chiến lược. Khi mà các tập đoàn kinh tế lớn của đất nước đều có ngân hàng riêng thì không còn chỗ cho các ngân hàng khác. Eximbank mở các điểm giao dịch qua hệ thống của Kinh Đô (Eximbank và Kinh Đô là đối tác chiến lược), còn các công ty dầu khí sắp tới sẽ được phục vụ bởi ngân hàng dầu khí!?
- Cạnh tranh với khối ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng trong nước còn thời gian khoảng 4 năm để tăng tốc trước khi Việt Nam mở cửa hoàn toàn lĩnh vực tài chính, ngân hàng theo cam kết gia nhập WTO. Yếu tố này sẽ ảnh hưởng nhiều đến các ngân hàng mới thành lập khi chỉ có thể đặt mục tiêu hòa vốn trong vòng 3 đến 4 năm đầu. Một ngân hàng vừa mới ổn định thì đã phải chịu sự cạnh tranh từ những ngân hàng có tên tuổi của nước ngoài.
- Mạng lưới ngân hàng còn thiếu và yếu. Ngoài một số ngân hàng mạnh có khả năng mở rộng mạng lưới, các ngân hàng khác chủ yếu tập trung tại TP. HCM và Hà Nội (gần đây có thêm Đà Nẵng), những ngân hàng mới thành lập cũng như các ngân hàng nông thôn chuyển thành đô thị cũng không thoát khỏi tình trạng này. Việc các ngân hàng “dồn cục” vào Hà Nội và TP. HCM sẽ dẫn đến tình trạng “dư thừa” đối với hai thành phố này, nhưng ở các đô thị còn lại nhu cầu vốn vẫn cao.
Danh sách ngân hàng có kế hoạch tăng vốn năm 2007
Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Eximbank: tăng từ 1.212 tỷ đồng lên 2.800 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB): tăng từ 600 tỷ đồng lên 3.000 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP Phát triển nhà TP. HCM: (HDBank): tăng từ 500 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP VPBank: tăng từ 750 tỷ đồng lên 1.500 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (Habubank): tăng từ 1.000 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB): tăng từ 567 tỷ đồng lên 1.200 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP Quân đội (MB): tăng từ 1.045 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank): tăng từ 1.000 tỷ đồng lên 2.600 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP Quốc tế (VIB): tăng từ 1.000 tỷ đồng lên 2.500 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP Á châu (ACB): tăng từ 1.100 tỷ đồng lên 2.630 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank): tăng từ 2.089 tỷ lên 4.450 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP Techcombank: tăng lên 2.700 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP Đông Á: tăng từ 880 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP An Bình: tăng từ 1.131 tỷ đồng lên 5.000 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP Gia Định: tăng từ 210 tỷ đồng lên 500 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP Nam Á: tăng từ 576 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP Đại Á: tăng từ 500 tỷ đồng lên 1.000 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB): tăng từ 600 tỷ đồng lên 1.200 tỷ đồng;
Ngân hàng Sài Gòn công thương (Saigonbank): tăng từ 689 tỷ đồng lên 1.020 tỷ đồng;
Ngân hàng TMCP Việt Á (VAB): tăng từ 500 tỷ đồng lên 1250 tỷ đồng.