Vimid (VVS) với “cú huých ” chuyển sàn

Vimid (VVS) với “cú huých ” chuyển sàn

(ĐTCK) Doanh thu và lợi nhuận bật tăng giúp Công ty cổ phần Đầu tư Phát triển máy Việt Nam (Vimid, mã VVS) tạo hình ảnh tích cực trước thời điểm chuyển sàn từ UPCoM sang HOSE, dù nợ vay, tồn kho và phải thu đồng loạt phình to.

Doanh thu, lợi nhuận tăng tốc…

Vimid đã được HOSE chấp thuận niêm yết hơn 21,5 triệu cổ phiếu. Bức tranh kinh doanh của doanh nghiệp trước chuyển sàn có sự chuyển biến mạnh.

Sau năm 2023 suy giảm sâu với doanh thu giảm 44,7%, còn 2.265 tỷ đồng và lợi nhuận ròng giảm 38,6%, còn 17,3 tỷ đồng, năm 2024 ghi nhận sự hồi phục ấn tượng khi doanh thu tăng 71,8%, lên 3.891,1 tỷ đồng và lợi nhuận ròng tăng 296,3%, lên 68,4 tỷ đồng.

Chưa dừng lại, 9 tháng đầu năm 2025 doanh thu tiếp tục tăng 103,1%, lên 5.444,3 tỷ đồng và lợi nhuận ròng tăng 173,7%, lên 170,29 tỷ đồng. Đây là giai đoạn tăng trưởng mạnh nhất của Vimid kể từ khi thành lập.

… nhưng tồn kho và phải thu chiếm gần toàn bộ tài sản

Tuy nhiên, giai đoạn 1/1/2021 - 30/9/2025, các khoản phải thu tăng 4,56 lần, thêm 3.083,4 tỷ đồng, lên 3.760,2 tỷ đồng và chiếm 72,3% tổng tài sản. Tồn kho tăng 3,86 lần, lên 1.213,9 tỷ đồng, chiếm 23,3% tổng tài sản.

Từ khi giao dịch trên UPCoM ngày 7/10/2022, VVS gần như “tê liệt” thanh khoản với chưa đến 1.000 cổ phiếu/phiên.

Chỉ từ 18/7/2025 đến 24/11/2025 - giai đoạn chuẩn bị chuyển sàn, cổ phiếu mới thu hút dòng tiền, đạt thanh khoản trung bình 189.000 cổ phiếu/phiên và tăng giá 200,8%, từ 21.110 đồng/cổ phiếu lên 63.500 đồng/cổ phiếu.

Tổng nợ vay tăng 1,14 lần, lên 547,1 tỷ đồng, tương đương 109,1% vốn chủ sở hữu. Riêng trong 9 tháng đầu năm 2025, nợ vay tăng 98% (thêm 270,8 tỷ đồng), phải thu ngắn hạn tăng 167,5% (thêm 2.354,3 tỷ đồng), còn tồn kho tăng 61,6%. Điều này cho thấy, các khoản phải thu, phải trả và tồn kho đang phình to song hành với doanh thu.

Tính đến 30/9/2025, tồn kho và khoản phải thu ngắn hạn chiếm tới 95,6% tổng tài sản. Riêng hàng tồn kho là 1.213,8 tỷ đồng, còn tiền gửi thế chấp tại các tổ chức tín dụng là 3.317,2 tỷ đồng.

Ở chiều ngược lại, khoản phải trả lớn nhất là 3.635,3 tỷ đồng đối với Sinotruk International - nhà sản xuất xe tải nặng, xe chuyên dụng và cũng là đối tác cung cấp sản phẩm chủ lực của Vimid tại Việt Nam.

Cạnh tranh xe tải nặng ngày càng khốc liệt

Vimid được thành lập năm 2010 với vốn điều lệ 1,8 tỷ đồng, hiện tăng lên 215,25 tỷ đồng. Doanh nghiệp nhập khẩu, phân phối xe tải trung - nặng, sơ mi-rơ mooc, xe chuyên dụng và vận hành hệ thống dịch vụ bảo hành, sửa chữa.

Hầu hết cơ sở vật chất như trụ sở 383,2 m2 tại Hà Nội, chi nhánh Tây Hà Nội 12.983,8 m2, kho LOG Bắc Giang 32.856 m2 hay các chi nhánh TP.HCM, Phú Thọ, Bình Định, Bình Dương đều đi thuê. Vimid về bản chất là đơn vị thương mại phụ thuộc lớn vào sức bán dòng sản phẩm Sinotruk từ đối tác.

Trong khi đó, thị trường phân phối xe tải nặng tại Việt Nam đang bước vào giai đoạn cạnh tranh khốc liệt. TMT Motors phân phối xe Howo và Sinotruk; Đầu tư Sản xuất Ô tô HNT phân phối Shacman, Dongfeng, Howo; Nam Hàn Group cung cấp UD Trucks; Thaco phân phối Foton, Fuso, KIA; còn Đầu tư Dịch vụ Hoàng Huy tập trung vào Dongfeng và International.

Vimid phục vụ nhóm khách hàng trong lĩnh vực xây dựng, logistics, khai thác khoáng sản - những ngành chịu tác động mạnh của chu kỳ kinh tế. Khi các lĩnh vực này tăng trưởng chậm lại, rủi ro đầu ra sẽ dồn về phía nhà phân phối.

Không chỉ chịu áp lực cạnh tranh, Vimid còn đối diện bài toán thanh khoản cổ phiếu. Từ tháng 10/2022 đến tháng 7/2025, cổ phiếu VVS gần như không có giao dịch. Dù giai đoạn chuẩn bị chuyển sàn ghi nhận sự cải thiện đột biến, thanh khoản bền vững vẫn là dấu hỏi.

Cơ cấu cổ đông hiện tại cũng ảnh hưởng đến thanh khoản khi ông Nguyễn Vũ Trụ, Chủ tịch Hội đồng quản trị nắm 47,77%; bà Nguyễn Thị Thu Huyền, Phó chủ tịch và là vợ ông Trụ nắm 10,34%; Công ty cổ phần M&A Holdings Việt Nam sở hữu 8,36%, còn lại 33,53% thuộc nhóm cổ đông nhỏ, tức lượng cổ phiếu tự do lưu hành chỉ hơn 7,2 triệu đơn vị.

Vimid dự kiến huy động vốn giai đoạn 2025-2030 thông qua phát hành cổ phiếu, vay tổ chức tín dụng hoặc phát hành trái phiếu.

Tuy nhiên, mô hình thương mại vốn mỏng cùng yêu cầu duy trì lượng hàng tồn kho lớn và tỷ lệ phải thu cao khiến khả năng xoay vòng vốn chịu áp lực đáng kể. Khi bước vào HOSE - sàn có yêu cầu minh bạch và tiêu chuẩn cao hơn - bài toán kiểm soát nợ vay, quản trị dòng tiền và ổn định thanh khoản càng trở nên quan trọng.

Tin bài liên quan