Doanh số bán lẻ phục hồi mạnh mẽ trong năm 2022.

Doanh số bán lẻ phục hồi mạnh mẽ trong năm 2022.

5 cải cách để Việt Nam “tươi sắc đào xuân”

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Ông Andrea Coppola, Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho rằng, cải cách thể chế có thể giúp Việt Nam tránh bẫy thu nhập trung bình bằng cách nâng cao năng lực ứng phó với những thách thức mới và phức tạp trên toàn cầu cũng như trong nước. 

Nhìn lại năm 2022, theo ông, động lực chính thúc đẩy những kết quả đạt được của kinh tế Việt Nam là gì?

Việt Nam đã có kết quả kinh tế vĩ mô tốt trong năm 2022, với GDP tăng 8,02%. Đây là một kết quả đáng chú ý, đặc biệt khi xét đến tình trạng suy thoái kinh tế ở các quốc gia khác trên thế giới. Tôi cho rằng, kết quả kinh tế tích cực của Việt Nam trong năm 2022 được thúc đẩy bởi 4 yếu tố chính.

Thứ nhất là xuất khẩu, vốn rất mạnh trong quá khứ, cho thấy khả năng phục hồi cả trong thời gian khủng hoảng do dịch Covid-19 khi xuất khẩu sản phẩm chế biến, chế tạo là động lực chính của tăng trưởng GDP. Mặc dù tăng trưởng xuất khẩu có thể chậm lại do nhu cầu toàn cầu đang suy yếu, nhưng xuất khẩu sẽ tiếp tục đóng góp vào tăng trưởng trong thời gian tới.

Thứ hai là nhu cầu trong nước. Tiêu dùng trong nước và doanh số bán lẻ là động lực tăng trưởng của đất nước trong năm qua. Điều này được thể hiện qua sự phục hồi mạnh mẽ của doanh số bán lẻ, tăng 17%/năm vào tháng 10/2022 so với mức 0,4%/năm vào tháng 1/2022. Nhu cầu trong nước dự kiến bị ảnh hưởng bởi lạm phát trong nước gia tăng trong thời gian tới, nhưng sẽ tiếp tục đóng góp tích cực vào tăng trưởng trong năm 2023.

Thứ ba, đầu tư tư nhân đóng một vai trò quan trọng. Trong năm 2022, giải ngân vốn FDI tăng 13,5% so với năm 2021.

Thứ tư, đại dịch Covid-19 tác động lớn đến Việt Nam trong năm 2021, đặc biệt là quý III. Do đó, hiệu quả kinh tế mạnh mẽ trong năm 2022 cũng là kết quả của hiệu ứng xuất phát điểm thấp.

Bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay sẽ tác động ra sao đến Việt Nam trong năm 2023?

Đại dịch đã gây ra những tổn thất lâu dài và sự kết hợp của nhiều cú sốc liên quan đang kéo kinh tế thế giới đi xuống, dự kiến sẽ dẫn đến sự giảm tốc mạnh của tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2023.

Ảnh tác giả

Lực cản bên ngoài bao gồm áp lực lạm phát, tiền tệ thắt chặt, suy thoái kinh tế nghiêm trọng hơn dự kiến của các đối tác thương mại chính…

Ông Andrea Coppola, Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam

Ba lực cản mạnh tác động đến kinh tế toàn cầu năm 2022 có thể tác động tiêu cực trong năm 2023 đó là áp lực lạm phát dai dẳng, điều kiện tài chính xấu đi và suy thoái kinh tế ở Trung Quốc cũng như nhiều nền kinh tế lớn khác. Nếu có các cú sốc kinh tế bổ sung, chẳng hạn thắt chặt tiền tệ mạnh hơn dự kiến, kinh tế toàn cầu có thể suy thoái.

Trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với những “cơn gió ngược” trong năm 2023, ở cả bên ngoài và bên trong. Như đã đề cập, lực cản bên ngoài bao gồm áp lực lạm phát, tiền tệ thắt chặt và suy thoái kinh tế nghiêm trọng hơn dự kiến của các đối tác thương mại chính của Việt Nam, cũng như sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong nước, lạm phát và sự không chắc chắn liên quan đến rủi ro trong lĩnh vực tài chính có thể ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng.

Chi tiêu công thời gian qua gặp nhiều trở ngại, ông nhìn nhận vấn đề này như thế nào?

Chi tiêu công đúng là đã gặp những trở ngại do thách thức trong quá trình triển khai, bao gồm các vấn đề như thu hồi đất và tái định cư. Vấn đề này đặc biệt nghiêm trọng đối với các dự án sử dụng vốn ODA mà việc thu hồi đất và tái định cư được thực hiện bằng nguồn vốn đối ứng thường bị dự toán thấp trong quá trình chuẩn bị dự án, dẫn đến không đủ vốn ở giai đoạn thực hiện.

Một vấn đề khác làm chậm tiến độ giải ngân các dự án đầu tư công là khâu chuẩn bị dự án còn yếu. Để tăng cường hiệu quả quản lý đầu tư công, các cơ quan chức năng có thể nâng cao chất lượng chuẩn bị dự án bằng cách thúc đẩy ước tính chính xác hơn về chi phí và lợi ích, bao gồm cả chi phí giải quyết đất đai. Nếu dự án được đánh giá là không khả thi sau khi phân tích chi tiết, các cơ quan chức năng có thể xem xét đơn giản hóa thủ tục hành chính để cho phép điều chỉnh kịp thời đề xuất dự án.

Trở thành nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045 là mục tiêu Việt Nam hướng tới. Theo ông, vai trò của thể chế đối với khát vọng này là gì?

Hiện đại hóa các thể chế hiện là một ưu tiên chính trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII thông qua vào tháng 2/2021. GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng gấp 5 lần trong 3 thập kỷ qua, trong khi các thể chế không thích ứng kịp với tốc độ tương tự.

Một loạt cải cách thể chế có thể giúp đất nước tránh bẫy thu nhập trung bình bằng cách nâng cao năng lực ứng phó với những thách thức mới và phức tạp trên toàn cầu cũng như trong nước.

Theo báo cáo đánh giá quốc gia gần đây của Nhóm Ngân hàng Thế giới với tiêu đề “Để Việt Nam tươi sắc đào xuân”, cần thực hiện 5 cải cách thể chế để Việt Nam cải thiện hiệu quả: thứ nhất, tạo nền tảng thể chế vững chắc cho từng ưu tiên phát triển nhằm biến những ưu tiên phát triển đó thành hành động cụ thể; thứ hai, đơn giản hóa thủ tục hành chính để nâng cao hiệu lực của chính quyền các cấp; thứ ba, sử dụng các công cụ dựa trên thị trường để tạo động lực cho các bên liên quan thuộc khu vực công và khu vực tư; thứ tư, thực thi hiệu quả các quy tắc và quy định để tăng cường động lực, niềm tin và sự công bằng; thứ năm, áp dụng các quy trình có sự tham gia để đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm giải trình cao hơn.

Khi áp dụng những cải cách thể chế này một cách có hệ thống hơn, Việt Nam sẽ củng cố tầm nhìn phát triển kinh tế, tăng cường năng lực thực hiện các chiến lược quốc gia và nâng cao năng lực tạo ra kết quả trong một số lĩnh vực then chốt giúp đất nước đạt được các mục tiêu phát triển, chẳng hạn tăng trưởng xanh, chuyển đổi kỹ thuật số, tài chính bao trùm, an sinh xã hội và nâng cấp cơ sở hạ tầng.

Biến đổi khí hậu sẽ tạo ra thách thức cho Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu thoát khỏi tình trạng thu nhập trung bình?

Ngân hàng Thế giới gần đây đã thực hiện báo cáo quốc gia về “khí hậu và phát triển” cho Việt Nam, trong đó tìm hiểu các chính sách và đầu tư cần thiết để duy trì tăng trưởng trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Báo cáo đã đề xuất hai lộ trình đan xen để quản lý tăng trưởng trước thách thức của biến đổi khí hậu.

Lộ trình thứ nhất tập trung vào nâng cao khả năng chống chịu trước những thiệt hại mà biến đổi khí hậu đang gây ra cho nền kinh tế và lộ trình thứ hai là giải quyết thách thức của quá trình khử các-bon.

Chương trình thích ứng và phục hồi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, yêu cầu đầu tư bổ sung với số tiền khoảng 5% GDP mỗi năm từ nay đến năm 2040. Khí hậu thay đổi sẽ đòi hỏi nhiều thay đổi trong cách tiếp cận đến cơ sở hạ tầng, với các công nghệ mới đóng vai trò quan trọng để đảm bảo cơ sở hạ tầng kết nối và năng lượng có thể chịu được các kiểu thời tiết mới mà không bị hư hại.

Cũng cần xem xét nghiêm túc cách thay đổi sinh kế ở những vùng dễ bị ảnh hưởng bởi mực nước biển dâng, lũ lụt hoặc hạn hán. Sông Mekong có lẽ là ví dụ rõ ràng nhất về điều này, với một nửa diện tích trong vùng có khả năng bị nhấn chìm vào năm 2050 do mực nước biển dâng. Mặc dù nhu cầu đầu tư rất lớn, nhưng chi phí của việc không hành động có thể còn cao hơn. Vì vậy, điều quan trọng là phải thúc đẩy chương trình này càng sớm càng tốt.

Lộ trình thứ hai là nhu cầu khử các-bon cho nền kinh tế. Việt Nam không phải là quốc gia phát thải lớn khí nhà kính trên toàn cầu, hiện chỉ đóng góp 0,8% lượng phát thải của thế giới, nhưng trong 2 thập kỷ qua là một trong những quốc gia phát thải khí nhà kính bình quân đầu người tăng nhanh nhất thế giới. Trong giai đoạn 2000 - 2015, lượng khí thải các-bon đã tăng gần 4 lần.

Tin bài liên quan