Tại các nước như Mỹ, Anh hay
Mỹ
Các công ty đại chúng Mỹ bắt buộc phải gửi BCTN theo mẫu có tên gọi 10-K cho Ủy ban Giao dịch và Chứng khoán Mỹ (SEC) mỗi năm một lần, trong vòng 90 ngày hoặc sớm hơn kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Tuy nhiên, mẫu 10-K này được mỗi công ty thể hiện theo cách riêng của mình cùng với các thông tin khác để tạo thành một BCTN gửi tới SEC và công chúng.
Mẫu 10-K khá chi tiết, bao gồm 4 mảng thông tin chính yếu là: hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính, biến động tỷ lệ sở hữu, và cuối cùng là kế hoạch tài chính tương lai của công ty. Mỗi mảng này lại được SEC chia nhỏ thành các mục khá chi tiết và chặt chẽ như “những vụ kiện pháp lý”, “các vấn đề cần biểu quyết của đại hội đồng cổ đông”, “định lượng và công bố định lượng về rủi ro thị trường”… (xem bảng).
Tuân theo báo cáo này, Apple Inc. chọn cách làm BCNT vô cùng đơn giản là điền vào chính mẫu 10-K, không kèm bất cứ hình ảnh thiết kế riêng nào về người khổng lồ công nghệ này. Trong khi CocaCola Enterprises, Inc. dường như chứng minh cho phong cách sáng tạo vô biên của văn hóa Mỹ, đã đưa ra một BCTN khoảng 70 trang tràn ngập hình ảnh về thương hiệu đồ uống toàn cầu này, với cách sắp xếp thông tin đem đến cho người đọc vô cùng độc đáo: Thư gửi cổ đông - Cơ hội tăng trưởng cho Công ty - Thư của giám đốc khu vực châu Âu - Cơ hội để đem đến giá trị cho Công ty - Thư của Giám đốc tài chính - Cơ hội để Công ty bền vững hơn nữa - Thông tin Ban quản trị, báo cáo tài chính và cuối cùng là mẫu 10-K.
Anh
BCTN các công ty tại Anh, bao gồm cả công ty đại chúng lẫn công ty tư nhân, đều tuân theo Luật Công ty 2006 của nước này. Theo luật này, BCTN bao gồm 3 nội dung chính: Ban quản trị đã hoàn thành những nhiệm vụ gì trong năm; Báo cáo kế toán cho năm đó và Lưu ý của Ban quản trị về mọi vấn đề được cho là liên quan tới kết quả hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Không phải tuân theo một mẫu cụ thể như các công ty đại chúng Mỹ, nhưng BCTN của các công ty Anh cũng chi tiết không kém, đặc biệt là báo cáo của các tổ chức tài chính lớn như Ngân hàng HSBC hay ANZ. Báo cáo năm 2012 của ANZ chia làm 4 mục lớn: mục thứ nhất chú trọng thông tin tổng quát, bao gồm các con số tài chính nổi bật, báo cáo của chủ tịch, báo cáo của CEO, báo cáo của thành viên HĐQT, báo cáo thù lao, quản trị doanh nghiệp; mục thứ hai là các thông tin kinh doanh, gồm tổng kết hoạt động, các rủi ro và biến động trọng yếu, tổng hợp giai đoạn 5 năm; mục thứ ba đi sâu vào các con số tài chính, gồm báo cáo tài chính, lưu ý báo cáo tài chính, giải trình của ban quản trị và báo cáo trách nhiệm, báo cáo độc lập của kiểm toán; và phần cuối cùng gồm các thông tin phụ như thông tin cho cổ đông.
Tương tự ANZ, HSBC chú trọng trước hết tính tuân thủ quy định pháp lý trong BCTN của mình, nên đã đưa ra một báo cáo dày đặc các thông tin chi tiết và con số, đồng thời gộp cả “Báo cáo kế toán” (một báo cáo cũng được yêu cầu nộp hàng năm) vào trong BCTN của mình.
Mặt khác, Unilever, tương tự CocaCola, lại chú trọng mặt hình ảnh và thương hiệu của mình. BCTN của ông lớn ngành hàng tiêu dùng này kéo một loạt thành tích về mặt hình ảnh lên ngay đầu báo cáo trong mục lớn “Về Unilever” - gồm thông điệp của Chủ tịch, nhìn lại của CEO, các nét hoạt động nổi bật, chiến lược của Công ty, mô hình kinh doanh, kế hoạch phát triển bền vững, thắng lợi về mặt thương hiệu và sáng tạo, thắng lợi về thị trường, thắng lợi thông qua cải tiến liên tục, thắng lợi về mặt con người, tổng kết tài chính 2012, các rủi ro; theo sau đó là 3 mục lớn “Quản trị doanh nghiệp”, “Báo cáo tài chính - trách nhiệm của ban quản trị” và “Thông tin cổ đông” dùng để công bố những thông tin giống như các BCTN khác.
Không khác các BCTN doanh nghiệp Mỹ và Anh là mấy - có chăng là bớt chi tiết hơn - một mẫu BCTN điển hình của doanh nghiệp Singapore bao gồm 5 phần chính: hồ sơ của công ty, bình luận của ban quản trị, thông tin quản trị doanh nghiệp, báo cáo pháp quy và báo cáo tài chính.
Một ví dụ cụ thể, BCTN năm 2012 của Singapore Airlines Ltd. bao gồm các mục được sắp xếp theo thứ tự: các con số nổi bật, thông tin Ban quản trị, thư của Chủ tịch gửi tới cổ đông, dữ liệu doanh nghiệp, các sự kiện nổi bật, tổng kết năm, mạng lưới hoạt động, đội ngũ lãnh đạo, sản phẩm và dịch vụ, phát triển con người, môi trường, hỗ trợ cộng đồng, công ty con, danh sách giải thưởng, thông điệp về quản trị rủi ro, báo cáo quản trị doanh nghiệp, báo cáo tài chính, lưu ý của Đại hội đồng cổ đông.
Những yếu tố được đề cao
Dù cho quy định pháp lý của quốc gia và cách trình bày của từng doanh nghiệp như thế nào, xét đến cùng, hiệu quả tương tác với nhà đầu tư là điều cốt lõi dùng để đánh giá một BCTN. Giải thưởng BCTN của Singapore Corporate Awards - một chương trình giải thưởng lâu năm do The Business Times của nước này tổ chức và được Sở GDCK Singapore hỗ trợ - nêu rõ trên website scawards.com.sg của Giải thưởng là để “khuyến khích những cách trình bày báo cáo tài chính xuất sắc và quy mô công bố thông tin lên trên những yêu cầu pháp lý tối thiểu”, để phục vụ nhu cầu của nhà đầu tư và những người liên quan khác như nhân viên công ty, nhà tín dụng và công chúng nói chung.
Trong hạng mục giải thưởng BCTN, website này cho biết, các báo cáo được sơ loại trước hết qua các tiêu chí: cách công ty tổng kết và bình luận kết quả hoạt động, cách công ty nêu tầm nhìn và các vấn đề chiến lược, cách công bố kế hoạch kinh doanh và triển vọng cũng như các vấn đề quản trị rủi ro, giải trình về các vấn đề môi trường và xã hội và các hoạt động quan hệ nhà đầu tư. Vòng loại tiếp theo sẽ vẫn đi vào những tiêu chí trên nhưng tỉ mỉ hơn nhiều, ví dụ như việc xét đến cả những phân tích và bình luận từng kỳ báo cáo (quý, bán niên, 5 năm …), so sánh với đối thủ và ngành, tỷ số giá trị gia tăng và năng suất, các chỉ số và bình luận khác về hoạt động kinh doanh của công ty, cùng với các yếu tố khác như thiết kế, trình bày.
Việc đặt tính tương tác với nhà đầu tư được thể hiện rõ hơn nữa trong hệ thống giải thưởng dành cho BCTN của Investor Relations Society (IR Society) - một cơ quan chuyên nghiệp phi lợi nhuận của Anh gồm 600 thành viên, chủ yếu là các công ty niêm yết ở Anh và chiếm 2/3 công ty niêm yết trong rổ chỉ số FTSE 100 Index. Hệ thống giải thưởng cho BCTN của tổ chức này chia ra hạng mục “BCTN có cách truyền thông về chiến lược và hiệu quả tốt nhất”, “BCTN có cách truyền thông về quản trị doanh nghiệp và quản trị rủi ro tốt nhất”, “BCTN có truyền thông về tính ổn định tốt nhất”, “Doanh nghiệp sử dụng công cụ truyền thông hiệu quả nhất để hỗ trợ quan hệ với nhà đầu tư”, “Doanh nghiệp sử dụng các công cụ điện tử mới hiệu quả nhất trên trang web của mình”, “Website doanh nghiệp tốt nhất”, và cuối cùng là giải thưởng cho BCTN hiệu quả nhất nói chung. Ngoài ra, là hệ thống giải thưởng dựa trên bầu chọn, giải thưởng này lại được chia ra cho các DN từ nhỏ đến lớn, gồm hạng mục giải thưởng cho các DN thuộc rổ FTSE 100, DN thuộc rổ FTSE 250, doanh nghiệp vốn hóa nhỏ và niêm yết trên AIM và DN quốc tế.
Ron Pippin, một chuyên gia hơn 40 năm trong ngành tư vấn tài chính và từng là Giám đốc Báo cáo tài chính cho Công ty Fortune 50, trong một bài blog của mình, đã đưa ra lời khuyên về cách thực hiện BCTN cho doanh nghiệp, đó là hãy “làm mới bằng việc tư duy tập thể về những thay đổi”.
Trong bài viết của mình, ông nói rằng, nhiều DN bắt đầu quá trình làm BCTN của mình bằng việc lấy báo cáo năm ngoái và làm công việc “cắt và dán”. Nhưng tốt hơn, doanh nghiệp hãy để một nhóm gồm nhân viên kế toán và các cán bộ pháp lý cùng ngồi lại và tư duy với nhau xem điều gì đã diễn ra trong năm vừa qua làm ảnh hưởng đến kết quả tài chính của công ty, và điều gì trong số đó cần phải giải trình.
Những câu hỏi tư duy có thể bao gồm: năm ngoái có một cuộc mua hay bán tài sản lớn nào không? Kết quả tài chính của công ty tốt hơn hay tương đương năm kề trước? Có thay đổi gì về tình hình tài chính cần phải giải trình hay không? Có những thay đổi gì trong môi trường kinh tế mà công ty đang hoạt động không…? Quá trình tư duy nhóm sẽ thúc đẩy các luật sư và kế toán viên của công ty cùng với các kiểm toán viên bên ngoài suy nghĩ về việc các nhà đầu tư cần gì hoặc cần biết gì về công ty, để sau đó nhóm có thể để đưa ra một thông điệp chung sẽ được truyền tải trong BCTN.
Và sau đó, Ron khuyên tiếp, công việc sẽ là của các lãnh đạo phải viết ra thông điệp của mình dựa trên kết quả tư duy nhóm đó. Các lãnh đạo cần phải nhớ rằng, chính họ là những người chịu trách nhiệm cuối cùng cho bản BCTN, chứ không phải là các kiểm toán viên.
“Những nỗ lực vất vả của công ty để chuẩn bị BCTN sẽ đem lại thành quả thích đáng”, Ron viết. “Nếu BCTN cung cấp cái nhìn rõ ràng về việc công ty đang hoạt động như thế nào trên thị trường cũng như so sánh với các công ty tương đương và về những ‘hố ga sẽ gặp trên đường’, nhà đầu tư sẽ cảm thấy hài lòng. Và tất cả các bên liên quan sẽ có thể ngủ ngon giấc”.