Tình hình sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực sau dịch Covid-19.

Tình hình sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực sau dịch Covid-19.

Bộ Tài chính nói gì về sức khoẻ tài chính của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam

0:00 / 0:00
0:00
Hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2022 của Công ty mẹ - Tổng công ty Đường sắt Việt Nam và các công ty con đã dần phục hồi sau dịch Covid-19, doanh thu tăng và đã giảm lỗ so với năm trước.

Bộ Tài chính vừa có công văn số 8829/BTC – TCDN gửi Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Bộ GTVT; Tổng công ty Đường sắt Việt Nam về tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2022 của Tổng công ty.

Doanh thu tăng, lỗ giảm mạnh

Theo đó, đối với toàn Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, Bộ Tài chính ghi nhận việc năm 2022, tổng doanh thu theo báo cáo tài chính hợp nhất của Tổng công ty là 8.166 tỷ đồng (tăng 21% so với năm 2021), mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh đã dần phục hồi sau dịch Covid-19 nhưng kết quả sản xuất kinh doanh năm 2022 của Tổng công ty vẫn bị lỗ 90 tỷ đồng (giảm 428 tỷ đồng so với năm 2021).

Đối với Công ty mẹ, tổng doanh thu năm 2022 là 5.520 tỷ đồng (tăng 38% so với năm 2021), trong đó doanh thu dịch vụ điều hành giao thông vận tải đường sắt là 1.997 tỷ đồng (tăng 58% so với năm 2021) nhưng không đủ bù đắp chi phí nên kết quả sản xuất kinh doanh năm 2022 của Công ty mẹ tiếp tục bị lỗ 152 tỷ đồng.

Tại thời điểm ngày 31/12/2022, tổng số nợ phải thu của Công ty mẹ là 1.647 tỷ đồng, chủ yếu phải thu của các công ty con, công ty liên kết; dự phòng nợ phải thu khó đòi là 134 tỷ đồng. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời là 1,08 lần.

Về vốn chủ sở hữu và bảo toàn vốn, Bộ Tài chính cho biết, tuy Công ty mẹ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh vốn điều lệ giai đoạn năm 2017 - 2019 từ 2.286 tỷ đồng lên 3.250 tỷ đồng, nhưng vốn thực góp tại thời điểm ngày 31/12/2022 chỉ là 3.105 tỷ đồng, như vậy Công ty mẹ chưa được bổ sung đủ vốn điều lệ theo phê duyệt.

Trong những năm vừa qua do chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty mẹ bị lỗ dẫn tới số lỗ lũy kế tại thời điểm ngày 31/12/2022 là 1.995 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu chỉ còn 1.147 tỷ đồng.

“Như vậy, theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam chưa bảo toàn vốn nhà nước tại Tổng công ty”, Bộ Tài chính đánh giá.

Đối với các công ty con, Bộ Tài chính ghi nhận doanh thu năm 2022 của 20 công ty thuộc khối bảo trì là 3.630 tỷ đồng, lợi nhuận là 76,68 tỷ đồng, hệ số khả năng thanh toán nợ đến hạn của các công ty đều đảm bảo lớn hơn 1, một số công ty có hệ số nợ/vốn chủ sở hữu cao như: Công ty cổ phần Đường sắt Vĩnh Phú (6,07 lần), Công ty cổ phần Đường sắt Thanh Hóa (4,86 lần), Công ty cổ phần Đường sắt Hà Ninh (6,9 lần) do đặc thù chưa thanh toán lương, bảo hiểm xã hội vào thời điểm cuối năm.

Tại thời điểm ngày 31/12/2022, vốn chủ sở hữu của 20 công ty là 457,201 tỷ đồng/339,872 tỷ đồng vốn điều lệ, như vậy thặng dư vốn của các 20 công ty này là 117,329 tỷ đồng, trong đó tỷ lệ sở hữu của Công ty mẹ nắm giữ vốn tại các công ty từ 51% đến 75,77%/vốn điều lệ.

Khó khăn nhất đối với các đơn vị thành viên của Tổng công ty là 2 công ty cổ phần vận tải đường sắt. Bộ Tài chính cho biết, do hạ tầng đường đường sắt lạc hậu, khai thác hạ tầng đường sắt chưa tốt dẫn đến khả năng cạnh tranh của vận tải đường sắt kém so với các loại hình vận tải khác (hàng không, đường bộ, đường biển).

Mặc dù doanh thu vận tải đường sắt năm 2022 đã có sự phục hồi, tăng 60% so với năm 2021 (3.868 tỷ 3 đồng/2.441 tỷ đồng), lãi 6,2 tỷ đồng (năm 2021 lỗ 261 tỷ đồng) nhưng do ảnh hưởng của dịch Covid-19 những năm vừa qua nên hai công ty có số lỗ lũy kế lớn, tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn.

Cụ thể, Công ty cổ phần Vận tải đường sắt Hà Nội có vốn điều lệ là 801 tỷ đồng, nhưng vốn chủ sở hữu chỉ còn 421 tỷ đồng, hệ số khả năng thanh toán nợ đến hạn là 0,84 lần, hệ số nợ/vốn chủ sở hữu là 2,29 lần.

Công ty cổ phần Vận tải đường sắt Sài Gòn có vốn điều lệ là 503 tỷ đồng, nhưng vốn chủ sở hữu chỉ còn 113 tỷ đồng, hệ số khả năng thanh toán nợ đến hạn thấp (0,39 lần) và hệ số nợ/vốn chủ sở hữu cao (9,98 lần) cho thấy tình hình tài chính rất khó khăn, mất vốn, thuộc diện phải thực hiện giám sát tài chính đặc biệt.

Khó khăn tương tự cũng diễn ra đối với khối sản xuất công nghiệp cơ khí đường sắt gồm 2 công ty cổ phần. Bộ Tài chính cho biết, Công ty cổ phần Xe lửa Dĩ An doanh thu năm 2022 là 46,46 tỷ đồng (tăng 15% so với năm 2021), lãi đạt 0,43 tỷ đồng.

Đặc biệt, Công ty cổ phần Xe lửa Gia Lâm doanh thu là 31,6 tỷ đồng (tương đương năm 2021) nhưng tiếp tục lỗ 2,68 tỷ đồng. Công ty có vốn điều lệ là 36 tỷ đồng nhưng vốn chủ sở hữu chỉ còn 2,6 tỷ đồng, hệ số nợ trên vốn chủ hữu là 16,54 lần cho thấy tình hình tài chính rất khó khăn, mất vốn, thuộc diện phải thực hiện giám sát tài chính đặc biệt.

Theo Bộ Tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2022 của Công ty mẹ - Tổng công ty Đường sắt Việt Nam và các công ty con của Tổng công ty đã dần phục hồi sau dịch Covid-19, doanh thu tăng và đã giảm lỗ so với năm trước nhưng tình hình tài chính và kinh doanh vẫn còn gặp nhiều khó khăn, số lỗ lũy kế của Công ty mẹ - Tổng công ty Đường sắt Việt Nam và một số công ty con còn rất lớn, vì vậy năm 2023 và các năm tiếp theo Tổng công ty cần có giải pháp phù hợp để khắc phục khó khăn, cải thiện dòng tiền và khôi phục sản xuất kinh doanh.

Giám sát tài chính đặc biệt với 2 công ty con

Tại công văn số 8829/BTC – TCDN, Bộ Tài chính đề nghị Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp tăng cường công tác giám sát tài chính, hiệu quả hoạt động đối với Tổng công ty Đường sắt Việt Nam theo quy định tại Điều 57 Luật số 69/2014/QH13, Nghị định số 87/2015/NĐ-CP ngày 06/10/2015 của Chính phủ và các quy định khác có liên quan.

Theo Đề án cơ cấu lại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đến năm 2025 vừa được Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp gửi lãnh đạo Chính phủ, cùng với việc trong giai đoạn 2021-2025, không tiến hành cổ phần hóa Công ty mẹ và các công ty thành viên, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam sẽ thực hiện hợp nhất Công ty cổ phần vận tải đường sắt Hà Nội và Công ty cổ phần vận tải đường sắt Sài Gòn thành 1 Công ty cổ phần vận tải đường sắt; giữ nguyên tỷ lệ phần vốn nhà nước nắm giữ trên vốn điều lệ của Công ty cổ phần Xe lửa Dĩ An là 86,85% và Công ty cổ phần Xe lửa Gia Lâm là 77,37%.

Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp cũng được đề nghị khẩn trương gửi báo cáo giám sát tài chính năm 2022 đối với Tổng công ty Đường sắt Việt Nam để Bộ Tài chính tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ theo quy định.

Cơ quan chủ sở hữu vốn Nhà nước tại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam phải xem xét, phê duyệt theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền: phê duyệt Chiến lược phát triển Tổng công ty Đường sắt Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và định hướng đến năm 2035; kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển 5 năm giai đoạn 2021 - 2025 của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam; Đề án cơ cấu lại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025, trong đó có xem xét đến việc điều chỉnh bổ sung đủ vốn điều lệ của Tổng công ty đã được phê duyệt và điều chỉnh bổ sung tăng vốn điều lệ cho các công ty cổ phần bảo trì đường sắt từ nguồn Quỹ Đầu tư phát triển, quỹ khác thuộc vốn chủ sở hữu và thặng dư vốn của các công ty này để đảm bảo đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Bộ Tài chính đề nghị Bộ GTVT xem xét, xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định phương án xử lý đối với các đường ngang hoặc các công trình do các địa phương hoặc các chủ đầu tư xây dựng mới nhưng đề nghị chuyển sang Bộ GTVT quản lý, tránh trường hợp các công ty cổ phần bảo trì đường sắt thực hiện quản lý, bảo trì các công trình này để đảm bảo an toàn chạy tàu nhưng không thu được tiền từ các chủ đầu tư hoặc không được dự toán ngân sách cấp kinh phí thực hiện quản lý, bảo trì.

Tổng công ty Đường sắt Việt Nam được yêu cầu thu hồi các khoản Công ty mẹ cho vay, các khoản công nợ và cổ tức được chia để không bị chiếm dụng vốn, tiền, tài sản của Tổng công ty.

Tổng công ty cũng phải chỉ đạo người đại diện vốn của Tổng công ty tại các công ty con bảo trì đường sắt: Phân tích, làm rõ nguyên nhân những công ty có hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu lớn và có biện pháp cơ cấu lại các nguồn vốn để giảm hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu đảm bảo không vượt quá 3 lần, giảm rủi ro về mặt tài chính; có ý kiến về tỷ lệ chia cổ tức, quy mô vốn điều lệ, việc trích lập quỹ đầu tư phát triển, quỹ phát triển khoa học và công nghệ, … để đảm bảo hài hòa lợi ích của doanh nghiệp và các cổ đông (bao gồm Công ty mẹ - Tổng công ty Đường sắt Việt Nam).

Bộ Tài chính đề nghị Tổng công ty phân tích, đánh giá các nguyên nhân khách quan, chủ quan thuộc nội dung quản trị của Công ty mẹ, 2 Công ty cổ phần vận tải đường sắt, Công ty cổ phần Xe lửa Gia Lâm và nguyên nhân hoạt động điều hành GTVT, dịch vụ công nghiệp chưa hiệu quả để có các giải pháp kịp thời khắc phục khó khăn, tăng doanh thu bù đắp chi phí, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh.

“Thực hiện công tác giám sát đối với Công ty cổ phần Vận tải đường sắt Sài Gòn, Công ty cổ phần Xe lửa Gia Lâm theo hình thức phù hợp theo quy định tại Nghị định số 87/2015/NĐ-CP của Chính phủ”, Bộ Tài chính nhấn mạnh.

Tin bài liên quan