Nghĩa vụ tài chính có thể chiếm 30-40% doanh thu
Ngày 15/10, VCCI và Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam phối hợp tổ chức Hội thảo “Chính sách tài chính cho ngành công nghiệp khoáng sản”. Phát biểu tại Hội thảo, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI đặt vấn đề, ngành công nghiệp khai khoáng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, không chỉ cung cấp nguyên liệu đầu vào thiết yếu cho nhiều ngành công nghiệp nền tảng như luyện kim, năng lượng, vật liệu xây dựng, mà còn là nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Việt Nam sở hữu nhiều loại khoáng sản có giá trị chiến lược, trong đó có đất hiếm, vonfram, bôxit - những nguyên tố đóng vai trò then chốt trong chuỗi cung ứng toàn cầu về công nghệ cao, năng lượng tái tạo, sản xuất pin, chip bán dẫn và quốc phòng.
“Tuy nhiên, tiềm năng to lớn đó chỉ có thể phát huy hiệu quả nếu chúng ta xây dựng được một hệ sinh thái chính sách phù hợp, trong đó, chính sách tài chính đóng vai trò then chốt. Trên thực tế, các doanh nghiệp trong lĩnh vực khai khoáng hiện đang phải thực hiện đồng thời hai nghĩa vụ tài chính lớn: Thuế tài nguyên theo Luật Thuế tài nguyên 2009 và Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo Luật Khoáng sản 2010, tiếp tục được kế thừa trong Luật Địa chất và Khoáng sản 2024.
Cả hai khoản thu này đều nhằm bảo đảm Nhà nước thu được phần giá trị từ tài sản công là tài nguyên khoáng sản. Tuy nhiên, việc cùng lúc áp dụng hai cơ chế tài chính đánh vào cùng một đối tượng đã và đang đặt ra những vấn đề thực tiễn, pháp lý và kinh tế đáng quan tâm”, ông Tuấn cho biết.
![]() |
Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI phát biểu tại sự kiện |
Theo phản ánh từ cộng đồng doanh nghiệp, tổng mức nghĩa vụ tài chính hiện nay đang cao vượt trội so với thông lệ quốc tế, có thể chiếm tới 30-40% doanh thu. Trong khi đó, các quốc gia có ngành khai khoáng phát triển như Australia, Canada, Indonesia thường chỉ áp dụng một cơ chế royalty linh hoạt, kết hợp với thuế thu nhập doanh nghiệp, với tổng mức thu thấp hơn đáng kể.
Chính sự chồng lấn về bản chất giữa thuế tài nguyên và tiền cấp quyền đang làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời tạo ra những rủi ro pháp lý và làm méo mó các động lực đầu tư vào khai thác hiệu quả và chế biến sâu - vốn là định hướng xuyên suốt trong Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược phát triển ngành khoáng sản đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Từ góc độ của chuyên gia về thuế, ông Nguyễn Văn Phụng, chuyên gia cấp cao về thuế và quản trị doanh nghiệp, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Hiệp hội Kế toán và kiểm toán Việt Nam (VAA), nguyên Cục trưởng Cục Thuế doanh nghiệp lớn (Cục Thuế, Bộ Tài chính) làm rõ hơn về các khoản thuế, nghĩa vụ tài chính đối với doanh nghiệp hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản.
Theo ông Phụng, các doanh nghiệp khoáng sản đang thực hiện 3 nhóm nghĩa vụ tài chính.
Thứ nhất, doanh nghiệp sử dụng đất cho hoạt động khoáng sản nên phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của Luật đất đai: Nộp tiền thuê đất; Thuế sử dụng đất; Phí, lệ phí liên quan đến đất đai; Thực hiện hiện bồi thường khi được giao đất thuê.
Thứ hai, thực hiện nghĩa vụ tài chính theo Luật Bảo vệ môi trường đối với các hành vi liên quan, bao gồm: Nộp thuế, phí bảo vệ môi trường; Bảo đảm nguồn lực cho hoạt động bảo vệ môi trường trong thời gian hoạt động, cho nghĩa vụ phục hồi môi trường sau khai thác.
Thứ ba, thực hiện nghĩa vụ thuế, phí và lệ phí theo quy định của các Luật thuế, Luật phí và lệ phí đối với hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh (khai thác, chế biến khoáng sản); thuế đối với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Riêng về thuế, doanh nghiệp khai thác khoáng sản đang chịu 9 loại thuế: Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản; Thuế tài nguyên; Thuế giá trị gia tăng (GTGT); Thuế Xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Thuế Thu nhập doanh nghiệp; Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp + Tiền thuê đất; Thuế Bảo vệ môi trường (than đá); Phí, lệ phí: Lệ phí cấp phép hoạt động khoáng sản; Phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản; Nghĩa vụ tài chính khác: Hoàn trả chi phí đánh giá tiềm năng khoáng sản, thăm dò khoáng sản do Nhà nước đầu tư; Đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, bảo vệ môi trường.
“Thuế thu nhập doanh nghiệp với doanh nghiệp khai thác khoáng sản rất cao, có thể tới 50%, trong khi các doanh nghiệp khác thường ở mức 25%”, ông Phụng cho biết và chia sẻ, cải cách về thuế tài nguyên là chặng đường rất dài và Bộ Tài chính rất quan tâm tới vấn đề này.
![]() |
Ông Nguyễn Văn Phụng, chuyên gia cấp cao về thuế và quản trị doanh nghiệp phát biểu tại Hội thảo |
Về vấn đề liệu có sự trùng lặp đối với khoản Thuế tài nguyên và Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, vị chuyên gia này đưa ra quan điểm cho rằng: Về hình thức, cách tính, đối tượng, khoản Tiền cấp quyền khai thác giống hệt Thuế tài nguyên. Do đó, cùng 1 khoản thu nhưng doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ với 2 cơ quan chủ quản khác nhau. 2 khoản thu này là gấp đôi nghĩa vụ với doanh nghiệp khoáng sản.
“Hai khoản thu cấp quyền khai thác khoáng sản và thuế tài nguyên có cùng cơ sở tính, cách tính; chỉ khác về phương thức quản lý, cơ quan quản lý, thời gian, phân cấp…, tạo cảm giác thu trùng lắp trên cùng một quyền lợi/nghĩa vụ”, ông Phụng chia sẻ.
Trong đó, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là khoản tiền tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải trả cho Nhà nước để được thực hiện quyền khai thác, thu hồi khoáng sản (được cấp Giấp phép khai thác/thu hồi khoáng sản). Khoản thu này lần đầu tiên được quy định tại Luật Khoáng sản 60/2010/QH12 ngày 17/11/2012, Chính phủ hướng dẫn tại Nghị định số 203/2013/NĐ-CP ngày 28/11/2013.
Từ ngày 1/7/2025, khoản thu này thực hiện theo quy định tại Luật Địa chất và Khoáng sản số 54/2024/QH15 ngày 29/11/2024. Trong đó, Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành tại Nghị định số 193/2025/NĐ-CP ngày 02/7/2025, giao cho Sở Nông nghiệp và Môi trường xác định và quyết toán tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, Chủ tịch UBND cấp tỉnh phê duyệt và phân cấp cho chính quyền cấp xã.
Thuế tài nguyên được thực hiện theo Luật thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 ngày 25/11/2009, có hiệu lực từ ngày 01/7/2010. Thuế tài nguyên được xác định theo công thức: Thuế phải nộp = Sản lượng tài nguyên x Giá tính thuế x Thuế suất.
Trong đó: Sản lượng tài nguyên là sản lượng tài nguyên tính thuế theo quy định. Giá tính thuế đối với tài nguyên khai thác được xác định ở khâu nào thì sản lượng tính thuế tài nguyên áp dụng tại khâu đó. Khung thuế suất tài nguyên khoáng sản kim loại là 5 - 25%.
“Việc quản lý, thực hiện Luật Thuế tài nguyên rất phức tạp trong tính toán, xác định sản lượng tài nguyên tính thuế, giá tính thuế tài nguyên. Các nghĩa vụ tài chính không chỉ gây khó cho doanh nghiệp mà cho cả cơ quan quản lý”, ông Phụng nói và kiến nghị, cần nghiên cứu, làm rõ nội hàm, đạo lý, phương thức quản lý để có thể thống nhất chính sách 2 khoản thu, đồng thời cũng làm giảm bớt thủ tục hành chính trong quản lý, tiết giảm chi phí xã hội trong quản lý thực thi và tuân thủ của doanh nghiệp.
Ý kiến từ nhà quản lý
Đại diện Cục Địa chất và Khoáng sản, Bộ Tài nguyên Môi trường chia sẻ về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Theo đó, về bản chất pháp lý, quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được xây dựng trên nguyên tắc nền tảng đó là: Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu. Khoản thu "Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản" là lợi ích kinh tế mà Nhà nước, với tư cách là chủ sở hữu, nhận được khi chuyển giao quyền khai thác “tài sản công” cho một tổ chức/cá nhân.
Theo thống kê, từ khi quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được triển khai (năm 2014) đến hết tháng 7/2025, tổng số tiền thu nộp vào NSNN là 53.511 tỷ đồng.
![]() |
Đại diện Cục Địa chất và Khoáng sản, Bộ Tài nguyên Môi trường |
Đại diện Bộ Tài nguyên Môi trường cũng cho biết, tồn tại một số bất cấp với tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo quy định của Luật năm 2010. Theo đó, tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản dựa trên trữ lượng khoáng sản được phê duyệt không bảo đảm tính chính xác khi trữ lượng khoáng sản được phê duyệt có sai số theo từng cấp trữ lượng.
Tổ chức khai thác khoáng sản phải hoàn thành việc nộp vào nửa đầu thời hạn cấp phép. Việc phải nộp số tiền lớn, trong khi các dự án đầu tư cần phải có thời gian xây dựng cơ bản mỏ, chưa ra sản phẩm, gây nhiều khó khăn cho đơn vị thu xếp nguồn vốn để triển khai thực hiện dự án.
Theo đó, quy định của Luật năm 2010, Luật năm 2024 cũng như các Nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các Luật đã có những thay đổi trong phương pháp tính và các vấn đề khác có liên quan.
“Ngày 02/7/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 193/2025/NĐ-CP, theo đó, một số quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được cụ thể hơn, được thực hiện theo hướng đơn giản hoá, dễ thực hiện, dễ giám sát, đảm bảo tính minh bạch”, đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết.
Trong đó, những thay đổi bao gồm phương thức thu, nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, về phê duyệt điều chỉnh tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, gia hạn nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, giải quyết số tiền sau quyết toán.
Đại diện Bộ Tài Nguyên và Môi trường nhấn mạnh, Bộ sẵn sàng lắng nghe các ý kiến đóng góp từ cộng đồng doanh nghiệp và chuyên gia để tiếp tục sửa đổi Nghị định 193/2025/NĐ-CP, nhất là trong bối cảnh việc quản lý hoạt động khai thác khoáng sản thông qua việc thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đã đóng góp nguồn thu cho NSNN hàng năm, nhưng cũng làm phát sinh nhiều vấn đề liên quan đến công tác khai thác, chế biến khoáng sản của các doanh nghiệp và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về việc quản lý hoạt động khai thác tại các doanh nghiệp.