Đầu tư công toàn bộ 6.029 tỷ đồng xây tuyến cao tốc Cao Lãnh – An Hữu

0:00 / 0:00
0:00
Dự án xây dựng đường bộ cao tốc Cao Lãnh - An Hữu được đề xuất đầu tư từ vốn ngân sách trung hạn giai đoạn 2020 - 2025 và Chương trình phục hồi kinh tế - xã hội.
Bình đồ tuyến cao tốc Cao Lãnh - An Hữu.

Bình đồ tuyến cao tốc Cao Lãnh - An Hữu.

Bộ GTVT vừa có tờ trình số 1461/TTr – BGTVT gửi Thủ tướng Chính phủ về Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Cao Lãnh – An Hữu.

Cụ thể, Dự án có điểm đầu giao với tuyến cao tốc Mỹ An – Cao Lãnh (cách nút giao An Bình khoảng 4 km) thuộc xã An Bình, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp; điểm cuối giao với tuyến cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận (cách nút giao An Thái Trung khoảng 1,8 km) thuộc xã An Thái Trung, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

Tổng chiều dài đoạn tuyến thuộc Dự án là khoảng 27,43 km (đoạn qua tỉnh Đồng Tháp dài khoảng 18,2 km; đoạn qua tỉnh Tiền Giang khoảng 9,23 km).

Theo Quy hoạch mạng lưới đường bộ Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, tuyến đường bộ cao tốc Cao Lãnh - An Hữu có quy mô là 4 làn xe, rộng 24,75 m. Tuy nhiên trong giai đoạn phân kỳ, Bộ GTVT kiến nghị tiến hành giải phóng mặt bằng theo quy hoạch nhưng chỉ xây dựng theo quy mô 4 làn xe, nền đường rộng 17 m.

Sơ bộ tổng mức đầu tư theo quy mô phân kỳ (4 làn xe hạn chế) là khoảng 6.029 tỷ đồng, bao gồm chi phí xây dựng và thiết bị 4.172 tỷ đồng; chi phí giải phóng mặt bằng, tái định cư 719 tỷ đồng; chi phí quản lý dự án, tư vấn, chi phí khác 417 tỷ đồng; chi phí dự phòng 721 tỷ đồng.

Dự án sẽ được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025, giai đoạn 2026-2030 của Bộ GTVT và vốn từ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 24/1/2022.

Công trình sau khi hoàn thành sẽ xây dựng phương án để thu hồi vốn nhà nước. Đây cũng là một hình thức huy động nguồn lực xã hội để tiếp tục đầu tư kết cấu hạ tầng nói chung và hạ tầng giao thông nói riêng.

Để thuận lợi trong quá trình tổ chức thực hiện, Bộ GTVT dự kiến chia Dự án thành 2 dự án thành phần.

Trong đó, Dự án thành phần 1 (Km0 đến khoảng Km18+200) từ xã An Bình, huyện Cao Lãnh, đến xã Mỹ Hiệp, huyện Cao Lãnh với chiều dài khoảng 18,2 km trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 4.307 tỷ đồng.

Dự án thành phần 2 (khoảng Km18+200 đến khoảng Km27+430) xã Tân Hưng, huyện Cái Bè đến xã An Thái Trung, huyện Cái Bè với chiều dài khoảng 9,23 km trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 1.722 tỷ đồng.

Theo Bộ GTVT, 2 dự án thành phần nêu trên nằm trên địa bàn 1 tỉnh nên không phải xây dựng Khung chính sách giải phóng mặt bằng trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đồng thời, được chuẩn bị và triển khai đầu tư cùng thời điểm, cùng được bố trí vốn để triển khai theo kế hoạch nên sẽ hoàn thành và khai thác đồng bộ toàn tuyến.

Do tầm quan trọng của dự án và được thực hiện theo các cơ chế theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 10/1/2022 của Quốc hội, Bộ GTVT và các địa phương sẽ nỗ lực triển khai ngay các thủ tục theo quy định, để sớm khởi công dự án.

Dự kiến tiến độ triển khai như sau: chuẩn bị dự án (năm 2022); Giải phóng mặt bằng, tái định cư (năm 2022 - 2023 cơ bản đạt 90% - 95%); thi công xây dựng công trình từ năm 2023 và cơ bản hoàn thành năm 2025.

Việc đầu tư xây dựng mới tuyến đường bộ cao tốc Cao Lãnh – An Hữu góp phần hoàn chỉnh mạng lưới giao thông trong khu vực, đáp ứng nhu cầu vận tải trên tuyến hành lang theo trục ngang chạy theo bờ Bắc sông Tiền, đồng thời đoạn tuyến là một phần tuyến cao tốc Hồng Ngự - Trà Vinh để kết nối cửa khẩu quốc tế Dinh Bà (tỉnh Đồng Tháp) với các các cảng biển khu duyên hải, khu kinh tế Định An (tỉnh Trà Vinh).

Với năng lực thông hành lớn, tốc độ cao và an toàn, Dự án góp phần đáp ứng nhu cầu vận tải, tạo sức lan tỏa, tạo động lực để phát triển kinh tế - xã hội khu vực; phát huy hiệu quả khai thác các tuyến trục dọc, tạo điều kiện thuận lợi để kết nối các trung tâm kinh tế trong khu vực, thúc đẩy lưu thông hàng hóa và phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp trong vùng; từng bước hình thành trục kết nối, giao thương và phát triển kinh tế - xã hội giữa Việt Nam với các nước tiểu vùng sông Mê Kông là rất cần thiết.

Tin bài liên quan