Kết quả điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa công phu nhất cho biết điều gì?

(ĐTCK) Cuộc khảo sát về tình các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở quy mô lớn nhất từ trước tới nay đã mang tới kết quả... giật mình. Tình hình của khối doanh nghiệp này thậm chí còn kém khả quan hơn năm 2011.
Kết quả điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa công phu nhất cho biết điều gì?

Sáng ngày 4/11/2014, trong khuôn khổ Dự án “Nghiên cứu khu vực doanh nghiệp” giai đoạn 2013-2014 do Cơ quan phát triển quốc tế Đan Mạch (DANIDA) tài trợ, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), Tổng cục Thống kê (GSO) và Trường Đại học Copenhagen (UoC) phối hợp tổ chức Báo cáo giới thiệu thông tin thu thập được từ cuộc điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) lần thứ năm nhằm cung cấp thông tin về thực trạng của DNNVV Việt Nam và một số trở ngại chính của khu vực doanh nghiệp này. 

Theo CIEM, cuộc điều tra này được thiết kế dựa trên bốn vòng điều tra trong các năm 2005, 2007, 2009 và 2011 và do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI), Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội (ILSSA) thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (MOLISA), Khoa Kinh tế (DoE) thuộc Trường Đại học tổng hợp Copenhagen với sự hỗ trợ của Đại Sứ quán Đan Mạch tại Việt Nam lên kế hoạch và thực hiện.

Cuộc điều tra được tiến hành bao gồm các cuộc phỏng vấn trực tiếp trong tháng 6, tháng 7 và tháng 8 năm 2013 đối với gần 2.500 doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực sản xuất chế biến. Điều tra được thực hiện tại 10 tỉnh và thành phố bao gồm Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh (HCMC), Hà Tây (cũ), Phú Thọ, Nghệ An, Quảng Nam, Khánh Hòa, Lâm Đồng và Long An.

Giáo sư Finn Tarp thuộc trường Đại học Copenhagen cho biết, cuộc điều tra đã cho thấy một bức tranh không mấy lạc quan về tình hình khu vực DNVVN hiện nay.

Cụ thể, khoảng 70% các doanh nghiệp được khảo sát nói rằng cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn có ảnh hưởng tiêu cực đến điều kiện kinh doanh năm 2013 và chỉ có 15% doanh nghiệp không cảm thấy những tác động tiêu cực của khủng hoảng năm 2007/2008 được báo cáo trong năm 2011 hoặc 2013.

Tương tự như trong năm 2011, các doanh nghiệp siêu nhỏ ít bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng hơn so với các doanh nghiệp lớn, so sánh năm 2011 và 2013, tổng lao động giảm 7,4%. Môi trường kinh doanh về tổng thể dường như không được cải thiện so với giai đoạn khảo sát trước.

Trong giai đoạn 2009-2011, tỷ lệ doanh nghiệp phải đối mặt với những trở ngại trong kinh doanh khá cao, và tình hình này đến nay cũng chưa có sự cải thiện đáng kể.

Cũng theo báo cáo, chi phí phi chính thức và tiếp cận tài chính cũng vẫn là một trong những vấn đề nghiêm trọng, tương tự như tình hình của giai đoạn 2009-2011. Tỷ lệ doanh nghiệp có chi phí phi chính thức năm 2013 cao hơn năm 2011 và tương tự như năm 2009, kết quả điều tra cho thấy chính thức hóa và tăng xác suất có chi phí phi chính thức có quan hệ thuận chiều.

Các phân tích về mục đích của các khoản chi phí phí chính thức cho thấy doanh nghiệp có các khoản chi này để nhằm đối phó với cơ quan/người thu thuế cũng như kết nối với dịch vụ công.

Bên cạnh đó, dữ liệu điều tra cho thấy doanh nghiệp hối lộ có xác suất thoát khỏi thị trường lớn hơn. Do vậy, ông Finn cho rằng chiến dịch thông tin về các tác động tiêu cực của tham nhũng có thể cần thiết để giảm áp lực chi phí phi chính thưc đối với cả phía cung và phía cầu..

Về xu hướng đổi mới của DNVVN, theo kết quả báo cáo, tỷ lệ đổi mới giảm mạnh so với năm 2011, kể cả về giới thiệu sản phẩm mới và cải tiến sản phẩm hiện có. Đặc biệt, các doanh nghiệp siêu nhỏ nông thôn là động lực chính của sự suy giảm này.

Kết quả điều tra cho thấy, sự suy giảm này có thể là một vấn đề đối với tính năng động trong tương lai, do đổi mới thông qua việc cải tiến sản phẩm hiện có quan hệ thuận chiều đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, các chính sách cần hướng trọng tâm đến nâng cao năng lực sáng tạo của các DNNVV.

Năng suất lao động năm 2013 giảm so với năm 2011, đặc biệt là sự suy giảm này chủ yếu do doanh nghiệp siêu nhỏ nông thôn

Tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện đầu tư giảm so với năm 2011. Đặc biệt là các doanh nghiệp siêu nhỏ ở thành thị miền Nam đóng góp chính vào sự sụt giảm này. Số tiền trung bình của các khoản đầu tư từ lợi nhuận giữ lại giảm so với năm 2011, tỷ trọng các khoản đầu tư từ các nguồn phi chính thức tăng lên. Trong bối cảnh đầu tư giảm, các chính sách kinh tế cần xác định xu hướng giảm này cùng với sự chuyển dịch sang sử dụng tín dụng phi chính thức của các DNNVV.

Theo nhóm thực hiện điều tra, kết quả của báo cáo lần này cho thấy một bức tranh xám màu hơn so với hai năm trước do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính vẫn còn tiếp diễn. Báo cáo tổng quan về môi trường kinh doanh tại Việt Nam này phản ánh những thách thức cấu trúc cơ bản cần phải được giải quyết thông qua một loạt các chính sách mới và một chiến lược phát triển mới để vực dậy và hỗ trợ khu vực DNVVN phát triển.

Tin bài liên quan