Moody's vẫn giữ đánh giá tiêu cực về triển vọng ngành ngân hàng Việt Nam trong 12-18 tháng tới

Moody's vẫn giữ đánh giá tiêu cực về triển vọng ngành ngân hàng Việt Nam trong 12-18 tháng tới

Moody nêu 6 thách thức của ngân hàng Việt Nam

Hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s trong báo cáo phát hành vào đầu tháng 9 gửi đến khách hàng của mình cho biết rằng hãng này vẫn giữ nguyên đánh giá không tốt về triển vọng của ngành ngân hàng Việt Nam trong 12-18 tháng tới dựa vào sự quan sát trên 6 ngân hàng mà Moody’s có xếp hạng tín nhiệm.

 

Sáu ngân hàng đó là Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), Á Châu (ACB), Kỹ Thương (Techcombank), Quân đội (MB), Quốc tế (VIB), và Sài Gòn - Hà Nội (SHB). Sáu ngân hàng này chiếm gần 30% tổng tài sản toàn hệ thống ngân hàng vào cuối năm 2010. Triển vọng tiêu cực của ngành ngân hàng cũng phù hợp với đánh giá tiêu cực của Moody’s về Việt Nam.

 

Theo Moody’s, triển vọng tiêu cực của ngành ngân hàng và cả Việt Nam đến từ môi trường kinh doanh khó khăn do sự mất cân bằng về kinh tế vĩ mô. Môi trường kinh doanh có thể đưa đến những rủi ro về chất lượng tài sản của ngân hàng, và khiến việc cho vay trở nên một thách thức. “Do vậy, chúng tôi e ngại rằng lợi nhuận và vốn dự trữ rủi ro của các ngân hàng sẽ giảm. Dữ liệu về hai yếu tố này hiện không tương xứng với rủi ro của các ngân hàng”, tổ chức xếp hạng này nói.

 

Moody’s nêu sáu điểm yếu và thách thức của hệ thống ngân hàng Việt Nam, bao gồm sự kém minh bạch dẫn đến không thể đánh giá đầy đủ sự bất ổn của hệ thống, các chính sách thường xuyên thay đổi đưa đến những thách thức trong hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó, tăng trưởng tín dụng quá lớn trong thập kỷ vừa qua, lạm phát và lãi suất cao đã có tác động tiêu cực đến tài chính của những người đi vay tiền ngân hàng. Những yếu tố này đã khiến tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng gia tăng. Một ví dụ được đưa ra về xu hướng gia tăng nợ xấu và báo cáo không đầy đủ của các ngân hàng đó là các khoản vay của Tập đoàn Vinashin chiếm 2% tổng dư nợ của 6 ngân hàng mà Moody’s có xếp hạng tín nhiệm, và nếu những khoản vay này được đưa vào nợ xấu, thì tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của các ngân hàng này sẽ tăng lên mức 3,9% vào cuối 2010 thay cho mức 1,9% đã được báo cáo.

 

Quy trình phân loại nợ lỏng lẻo đã dẫn đến việc trích lập dự phòng ít hơn cũng như báo cáo đẹp hơn về lợi nhuận của các ngân hàng. Theo Moody’s, một trong những thách thức của ngân hàng Việt nam đó là đảm bảo thanh khoản của mình trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng quá nhanh trong quá khứ và người gửi tiền tại Việt Nam khá nhạy cảm đối với hệ thống ngân hàng và đồng nội tệ. Các ngân hàng đang cần một lượng vốn mới để tiếp tục phát triển và dự trữ cho những khoản vay đã hoặc có khả năng bị mất vốn, Moody’s nhận định.

 

Hai bất ổn vĩ mô có thể tác động đến hoạt động của ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới theo Moody’s là kinh tế thế giới chưa chắc có thể phục hồi được trong khi Việt Nam là một nền kinh tế bị ảnh hưởng lớn bởi yếu tố bên ngoài, khi tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ xuất nhập khẩu chiếm 167% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Bất ổn vĩ mô thứ hai là khả năng của Chính phủ thực hiện các chính sách hiệu quả để ổn định kinh tế vĩ mô.

 

Nói về lợi nhuận của ngân hàng Việt Nam, Moody’s cho rằng lợi nhuận 2010 của các ngân hàng chủ yếu đến từ tăng trưởng cho vay. Vì vậy, khi tăng trưởng tín dụng năm 2011 bị kiềm chế ở mức 20% trong khi chi phí hoạt động của ngân hàng gia tăng đáng kể do lạm phát tăng và đặc biệt là chi phí huy động vốn tăng, thì lợi nhuận của các ngân hàng sẽ có xu hướng giảm. “Xu hướng lợi nhuận của các ngân hàng trong 12-18 tháng tới sẽ giảm do tăng dư nợ chậm và chi phí vốn tăng cao”, Moody’s nói.

 

Điểm tích cực duy nhất đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam theo Moody’s đó là nhà đầu tư nước ngoài vẫn đang đầu tư có chọn lọc vào các ngân hàng nội địa, cung cấp vốn và hỗ trợ kỹ thuật với cái nhìn dài hạn về triển vọng của ngành này tại Việt Nam.

 

Báo cáo về triển vọng ngành ngân hàng đưa ra cái nhìn của tổ chức xếp hạng tín dụng Moody’s về môi trường hoạt động trong đó các yếu tố kinh tế vĩ mô, sự cạnh tranh, xu hướng chính sách tác động thế nào lên chất lượng tài sản và vốn của ngân hàng, đặc biệt là lên chi phí vốn và khả năng tạo lợi nhuận của ngân hàng. Triển vọng tiêu cực (negative) cho thấy việc phải hoạt động trong các điều kiện bất ổn.