
Phiên họp thứ 50 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Theo Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội, bên cạnh các yếu tố khách quan, những hạn chế trong phát triển chủ yếu bắt nguồn từ nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân chủ quan sâu xa không chỉ nằm ở thể chế chồng chéo, thủ tục rườm rà, mà còn ở chỗ cải cách thể chế có lúc còn theo hướng “ứng phó tình huống” thay vì có tầm nhìn dài hạn, dẫn đến tình trạng luật sửa nhiều lần nhưng vẫn chưa khắc phục triệt để các bất cập.
Kết quả toàn diện và khá ấn tượng
Chuẩn bị trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10 tới, báo cáo tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 16/2021/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 vừa được Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến trong phiên họp thứ 50.
Theo đánh giá của Chính phủ, 5 năm 2021 - 2025 tình hình kinh tế - xã hội ngày càng được cải thiện, cơ bản kết quả năm sau tốt hơn năm trước, dự kiến đạt và vượt 22/26 chỉ tiêu chủ yếu, xấp xỉ đạt 2/26 chỉ tiêu, 2/26 chỉ tiêu chưa đạt, trong đó hoàn thành toàn bộ chỉ tiêu về xã hội, tạo thế, tạo đà, tạo lực cho phát triển cao hơn trong giai đoạn tới.
Hai chỉ tiêu xấp xỉ đạt gồm tốc độ tăng GDP bình quân khoảng 6,3% (mục tiêu là 6,5%-7%); tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo khoảng 24,7%GDP (mục tiêu là trên 25%GDP). Còn 2/26 chỉ tiêu chưa đạt đó là: tỷ trọng kinh tế số khoảng 14% GDP (mục tiêu là khoảng 20%); năng suất lao động bình quân/năm tăng khoảng 5,1% (mục tiêu là trên 6,5%).
Thẩm tra, Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính cho rằng, giai đoạn 2021 - 2025 là thời kỳ đặc biệt khó khăn, nhiều biến động nhanh, phức tạp, khó lường và chưa từng có tiền lệ, những kết quả trên là khá ấn tượng và toàn diện.
Thường trực Ủy ban thẩm tra đánh giá cao những đột phá trong cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, việc rà soát, loại bỏ các quy định, thủ tục chồng chéo đã giúp giảm đáng kể chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp, góp phần nâng xếp hạng môi trường kinh doanh toàn cầu của Việt Nam. Đặc biệt, quá trình phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, trong đó đã thực hiện thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù, phân cấp cho 10 địa phương, tạo động lực thử nghiệm cơ chế, chính sách mới, bước đầu phát huy hiệu quả trong quản lý đất đai, đầu tư, tài chính, môi trường.
Bên cạnh đó, Thường trực Ủy ban cũng ghi nhận nỗ lực xây dựng khung khổ pháp lý cho các lĩnh vực mới như thị trường carbon, tài chính xanh, coi đây là bước đi quan trọng để nắm bắt xu thế phát triển bền vững và hội nhập sâu hơn vào thị trường khu vực và toàn cầu.
Đồng thời, việc triển khai Đề án cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, chuyển đổi số hơn 245 triệu dữ liệu và kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã minh chứng cho cách làm mới, gắn cải cách thể chế với ứng dụng công nghệ. Vai trò giám sát, kiểm soát quyền lực được tăng cường thông qua thanh tra, kiểm toán, giải quyết khiếu nại, tố cáo; cùng với các sáng kiến như Cổng Pháp luật quốc gia, ứng dụng AI pháp luật, góp phần đưa pháp luật vào thực tiễn nhanh hơn, minh bạch hơn.
Những kết quả này đã đặt nền tảng quan trọng cho việc hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo lập môi trường cạnh tranh minh bạch, thuận lợi, nâng cao niềm tin của người dân và doanh nghiệp, đồng thời mở đường cho đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững trong giai đoạn tiếp theo, Thường trực cơ quan thẩm tra khẳng định.
Hạn chế trong phát triển chủ yếu bắt nguồn từ nguyên nhân chủ quan
Nhận diện những hạn chế, Chính phủ cho rằng áp lực điều hành vĩ mô còn lớn, nhất là về lạm phát, tỷ giá, lãi suất trong bối cảnh thị trường quốc tế rủi ro ngày càng gia tăng; năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu; chất lượng tăng trưởng một số lĩnh vực chưa cao; một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp mũi nhọn phát triển chậm. Đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo…; tình hình tội phạm ma túy, lừa đảo trên mạng tại một số địa bàn diễn biến phức tạp; các giải pháp xử lý, khắc phục ô nhiễm không khí, ùn tắc giao thông, ngập úng tại các thành phố lớn chưa hiệu quả...
Nguyên nhân chủ quan là do một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa chủ động, sáng tạo, thiếu quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện chủ trương của Trung ương, Chính phủ; một bộ phận cán bộ còn sợ trách nhiệm; cơ chế, chính sách, pháp luật vẫn còn những điểm nghẽn, chưa theo kịp yêu cầu phát triển, chậm được sửa đổi, hoàn thiện; sự phối hợp giữa các bộ, ngành, các địa phương chưa chặt chẽ, hiệu quả…
Nhận xét những nguyên nhân Chính phủ nêu cơ bản là xác đáng, tuy nhiên, Thường trực cơ quan thẩm tra nêu rõ, bên cạnh các yếu tố khách quan, những hạn chế trong phát triển chủ yếu bắt nguồn từ nguyên nhân chủ quan. Quá trình cải cách thể chế chưa tạo được bước chuyển mang tính nền tảng; hệ thống pháp luật vẫn chồng chéo, nhiều quy định chưa theo kịp yêu cầu của mô hình kinh tế số, kinh tế xanh, dẫn đến môi trường đầu tư, kinh doanh thiếu ổn định và chưa tạo được niềm tin vững chắc cho doanh nghiệp.
“Nguyên nhân chủ quan sâu xa không chỉ nằm ở thể chế chồng chéo, thủ tục rườm rà, mà còn ở chỗ cải cách thể chế có lúc còn theo hướng “ứng phó tình huống” thay vì có tầm nhìn dài hạn, dẫn đến tình trạng luật sửa nhiều lần nhưng vẫn chưa khắc phục triệt để các bất cập. Việc phân cấp, phân quyền còn bắt nguồn từ tâm lý “sợ buông, sợ trách nhiệm”, chưa thiết lập được cơ chế kiểm soát và bảo vệ người dám đổi mới. Điều này khiến một bộ phận cán bộ hành chính thận trọng quá mức, né tránh, làm giảm hiệu lực thực thi chính sách, đồng thời kéo dài tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”. Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là năng lực hoạch định và thực thi chính sách trong bối cảnh chuyển đổi số, kinh tế xanh, hội nhập quốc tế, còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới. Sự thiếu hụt đội ngũ cán bộ có tầm nhìn chiến lược khiến nhiều cải cách chỉ dừng ở mức hình thức, thiếu tính đột phá, chưa tạo động lực mới cho phát triển”, báo cáo thẩm tra nêu rõ.
Thường trực Ủy ban thẩm tra cho rằng, đây là những nguyên nhân mang tính hệ thống, gốc rễ, lý giải vì sao nhiều tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chậm được khắc phục. Nếu không có giải pháp căn cơ, đồng bộ để xử lý triệt để các nguyên nhân này, thì khả năng duy trì ổn định vĩ mô, nâng cao chất lượng tăng trưởng và đạt mục tiêu phát triển nhanh, bền vững trong giai đoạn tới sẽ còn nhiều thách thức, cơ quan của Quốc hội lưu ý.
Tận dụng hiệu quả các cơ hội, tránh rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”
Từ những phân tích trên, Thường trực cơ quan thẩm tra nhấn mạnh, bài học kinh nghiệm quan trọng là cải cách thể chế phải được coi là “đột phá của mọi đột phá”, không thể chỉ dừng ở việc cắt giảm thủ tục hành chính, mà cần tiến tới bảo đảm tính minh bạch, dự đoán được, và nhất quán của hệ thống pháp luật. Cùng với đó, xây dựng cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm là điều kiện tiên quyết để tạo ra động lực hành động trong bộ máy.
Bài học về phát huy sức mạnh Nhân dân cũng không chỉ dừng ở khối đại đoàn kết, mà cần được cụ thể hóa bằng việc bảo đảm quyền lợi thiết thực của người dân và doanh nghiệp, coi đây là thước đo khách quan cho hiệu quả chính sách. Công tác dự báo, tham mưu chiến lược cần được nâng lên một bước về chất, với sự tham gia thực chất hơn của khoa học, công nghệ và các tổ chức nghiên cứu độc lập, để nâng cao khả năng ứng phó sớm với các cú sốc khó lường.
Thường trực Ủy ban thẩm tra nhấn mạnh, ưu tiên hàng đầu của giai đoạn tới là khắc phục triệt để các điểm nghẽn đã kéo dài trong giai đoạn 2021 - 2025, nhất là chất lượng nguồn nhân lực, tính đồng bộ của thể chế và năng lực đổi mới sáng tạo.
Cùng với đó, cần tập trung phát triển công nghiệp nền tảng, công nghiệp hỗ trợ, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, từng bước tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Việc đẩy nhanh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế biển và hệ thống đô thị bền vững sẽ là điều kiện để Việt Nam tận dụng hiệu quả các cơ hội, tránh rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” và tiến kịp mục tiêu trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030.