
TP.HCM cần có chính sách đột phá để khuyến khích các nguồn lực bên ngoài tham gia thực hiện dự án chống ngập.
Bài 5: Cần sáng tạo, đột phá để khơi thông nguồn lực xã hội
TP.HCM nên đặt dự án chống ngập vào một dự án chung mang tính tổng thể hướng tới đa mục tiêu để huy động vốn và thay đổi việc phân bổ vốn.
Rõ nét dòng vốn cuộc di dời lịch sử khơi thông kênh rạch
Như đã đề cập và phân tích ở các bài trước, tình trạng nhà cửa lấn chiếm kêch rạch; hệ thống cống có tuổi đời lên đến trăm năm nhỏ hẹp; các tuyến đường, nền nhà nâng cao; tốc độ đô thị hóa kéo theo bê tông hóa… là nguyên nhân như những mắt xích không thể tách rời gây nên cảnh ngập lụt mỗi mùa mưa về ở TP.HCM.
Bởi vậy, khi thực hiện chỉnh trang chống ngập, phải đồng bộ được tất cả các lĩnh vực trên, đặt vào một dự án chung mang tính tổng thể hướng tới đa mục tiêu để huy động vốn và phân bổ nguồn vốn.
Tuy nhiên, theo tìm hiểu của chúng tôi, trong cuộc chống ngập lụt, chỉnh trang đô thị sắp tới của TP.HCM, mới chỉ có chương trình di dời ven kênh rạch rõ nét về nguồn vốn.
Cụ thể, theo Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị TP.HCM, Thành phố còn 398 dự án/tuyến sông, kênh, rạch chưa triển khai thuộc 16 quận, huyện và TP. Thủ Đức, với tổng quy mô di dời gần 40.000 căn nhà. Việc di dời này, Thành phố đặt trong cuộc đại chỉnh trang đô thị từ nay đến năm 2030.
Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị TP.HCM cho hay, để thúc đẩy công tác di dời, giải phóng mặt bằng, trong thời gian tới, Thành phố cần khoảng 221.370 tỷ đồng. Trong đó, kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khoảng 130.680 tỷ đồng; chi phí xây dựng nhà ở xã hội cho trường hợp không đủ điều kiện bồi thường, tái định cư là 10.692 tỷ đồng; chi phí đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, nạo vét, cải tạo sông, kênh rạch là 80.000 tỷ đồng.
Theo các chuyên gia, thực tế trong hơn 30 năm qua (từ năm 1993 đến năm 2025), TP.HCM di dời, giải phóng mặt bằng được 44.338 căn nhà trên và ven kênh rạch, không đạt kế hoạch đề ra, bởi chỉ trông chờ nguồn vốn ngân sách và luôn trong tình trạng “thiếu trước, hụt sau”, việc huy động nguồn lực xã hội lại quá ít ỏi.
Thế nên, với 221.370 tỷ đồng cho cuộc di dời gần 40.000 căn nhà trong vòng 5 năm tới, tương đương tổng số căn đã di dời trong hơn 30 năm qua, là một thách thức lớn về mặt tài chính.
Tại đề án di dời gần 40.000 căn nhà, thực hiện từ nay tới năm 2030, Sở Xây dựng TP.HCM đưa ra phương án tài chính được xem là đổi mới.
Chuyên gia cho rằng, câu chuyện Dự án Giải quyết ngập do triều khu vực TP.HCM có xét đến yếu tố biến đổi khí hậu trị giá gần 10.000 tỷ đồng, đầu tư theo phương thức PPP, đã hoàn thiện đến 90% rồi “đứng hình” bởi vướng các quy định pháp lý là minh chứng điển hình cho việc cần đổi mới và đồng bộ từ Trung ương tới địa phương.
Cụ thể, đối với công tác bồi thường, di dời, giải phóng mặt bằng, sẽ thực hiện bằng nguồn vốn ngân sách. Sau đó, Thành phố sẽ có được các khu đất dọc sông, kênh, rạch có thể đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư hoặc đấu giá đất để thực hiện các dự án đầu tư xây dựng nhà ở, các dự án thương mại dịch vụ.
Theo tính toán sơ bộ của cơ quan chức năng, Thành phố có 18 vị trí dự án/tuyến sông, kênh, rạch khả thi để mở rộng biên phục vụ mục đích chỉnh trang đô thị và khai thác dự án thương mại nhằm kêu gọi nhà đầu tư với tổng quy mô khoảng 9.922 căn. Dự kiến, TP.HCM có thể thu về hơn 164.111 tỷ đồng từ việc đấu thầu, đấu giá các khu đất này.
Đối với các dự án xây dựng khu tái định cư, nghiên cứu phương án do Nhà nước thực hiện đầu tư hoặc kêu gọi các nhà đầu tư tham gia thực hiện.
Đối với các dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, thực hiện từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, sau đó khai thác chủ yếu cho thuê.
Bên cạnh đó, TP.HCM có gần 9.000 căn hộ tái định cư bỏ trống, cũng là nguồn có thể tận dụng cho cuộc di dời dân, giảm gánh nặng tài chính cho ngân sách.
Gian nan vốn xã hội hóa cho dự án chống ngập đến năm 2030
Nếu như chương trình di dời gần 40.000 căn nhà ven kênh, rạch đã rõ nguồn vốn, thì các dự án chống ngập khác tới năm 2030 của TP.HCM lại vẫn mông lung.
Trong kế hoạch chống ngập và xử lý nước thải tới năm 2030, Thành phố cần giải quyết ngập do mưa đối với 13 tuyến đường, giải quyết ngập do triều cường 6 điểm, gồm Huỳnh Tấn Phát, Trần Xuân Soạn (quận 7), Lê Văn Lương, Đào Sư Tích (huyện Nhà Bè), Quốc lộ 50 (huyện Bình Chánh), Bình Qưới (quận Bình Thạnh).
Với các dự án liên quan để thực hiện, cơ quan chức năng chỉ cho biết chung là sẽ huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách, như vốn ODA, vốn xã hội hóa, thực hiện theo phương thức đối tác công - tư (PPP), để thực hiện các dự án thoát nước đồng bộ theo lưu vực thoát nước.
Trong khi đó, cũng chính cơ quan chức năng của TP.HCM nêu, chương trình chống ngập giai đoạn 2020 - 2025 không đạt chỉ tiêu kế hoạch bởi khó khăn về nguồn vốn xã hội hóa, khi công tác mời gọi đầu tư đối với lĩnh vực thoát nước, chống ngập vẫn còn hạn chế, chưa khuyến khích các nguồn lực bên ngoài tham gia thực hiện.
Thêm chiến lược tới năm 2040, tầm nhìn đến năm 2060
Theo Đồ án Điều chỉnh quy hoạch chung TP.HCM đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2060, Thành phố đề ra giải pháp hạ tầng chống ngập và thích ứng biến đổi khí hậu là sử dụng hệ thống hạ tầng hiện trạng và xây dựng bổ sung các công trình liên quan, triển khai 3 lớp kiểm soát ngập, gồm lớp bảo vệ, lớp thích ứng và lớp giảm thiểu thiệt hại.
Với lớp bảo vệ, TP.HCM sẽ đầu tư kết hợp nhiều giải pháp như đê, kè, đường ngăn triều, cống ngăn triều, hành lang kiểm soát ngập… phục vụ mục tiêu kiểm soát nguy cơ ngập do sự dâng cao của mực nước trên sông do triều, xả lũ từ thượng lưu và nước biển dâng.
Với lớp thích ứng, TP.HCM xây dựng hệ thống hồ điều tiết để trữ dòng chảy tràn gây ngập do mưa cho các khu vực nằm trong hệ thống đê, kè, đường ngăn triều và hành lang kiểm soát ngập, khi hệ thống không thể thoát nước mưa ra ngoài do mực nước trên sông dâng cao. Hồ điều tiết bao gồm các công trình như hệ thống hồ điều tiết hở và ngầm, hệ thống kênh và rạch tự nhiên, các không gian mở và các khu vực trũng thấp có khả năng trữ nước như công viên bán ngập...
Với hạ tầng giảm thiểu thiệt hại (thuộc lớp giảm thiểu thiệt hại), TP.HCM sẽ nâng cao độ nền các tuyến đường trục chính để chia ngập và phục vụ cứu hộ khi có sự kiện cực đoan xảy ra.
Chỉ có thể là đột phá
Chuyên gia cho rằng, TP.HCM cần thay đổi nhận thức về công tác chống ngập và hiểu rõ, nếu tách bạch việc di dời, giải tỏa nhà trên kênh rạch hay chống ngập thành chương trình độc lập, thì rất khó khả thi. Bởi vì, để chống ngập, thì không chỉ di dời nhà hay làm hệ thống cống tiêu thoát là xong, mà tất cả như những mắt xích liên kết chặt chẽ với nhau. Theo đó, cần phải xem dự án chống ngập là một loại dự án tổng hợp, đa ngành, đa lĩnh vực.
Khi nhận thức được như vậy, thì sẽ không chỉ phân bổ nguồn vốn cho việc đầu tư hệ thống tiêu thoát nước, mà còn có thể điều chuyển vốn từ các dự án đầu tư khác sang khi cần thiết.
Theo PGS-TS. Hồ Long Phi, nguyên Viện trưởng Viện Nước và Biến đổi khí hậu (Đại học Quốc gia TP.HCM), dự án chống ngập là hạ tầng thiết yếu. Thực tế thời gian qua cho thấy, không thể trông chờ ngân sách, mà cần phải có phương thức đầu tư xứng đáng, như mô hình đầu tư theo phương thức PPP với đường cao tốc.
Nhưng, với dự án đường cao tốc được triển khai theo phương thức PPP, nhà đầu tư được thu phí từ người sử dụng. Còn với dự án chống ngập, thoát nước, như đại diện Sở Xây dựng TP.HCM từng thừa nhận, chưa thu hút được doanh nghiệp tham gia đầu tư theo phương thức PPP do thiếu cơ chế chia sẻ rủi ro, chưa rõ ràng về lợi nhuận hoàn vốn.
Hơn nữa, không dễ để thu được “phí thoát ngập” như “phí cao tốc” từ người dân và nếu thu thì sẽ dẫn đến tình trạng phí chồng phí, bởi TP.HCM đã thu vào ngân sách “giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải”.
Câu chuyện “đói vốn” cho các dự án chống ngập không chỉ tồn tại ở TP.HCM, mà còn ở nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước, trong bối cảnh tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng. Tương tự, khó khăn trong việc thu hút nguồn vốn xã hội hóa cho lĩnh vực chống ngập, thoát nước cũng không phải câu chuyện riêng của TP.HCM.
Bởi vậy, theo ý kiến của một chuyên gia, không chỉ TP.HCM cần vận dụng cơ chế đặc thù của Nghị quyết số 98/2023/QH15 để đột phá, sáng tạo nhằm huy động nguồn lực xã hội, mà cấp Trung ương cũng cần phải vào cuộc đổi mới, đồng bộ hóa các cơ chế, chính sách liên quan.