Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 14-21/10: Phân hóa mạnh

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Kết thúc tuần giao dịch từ 14-21/10, việc USD đi lên trong khi CNY suy yếu tiếp tục gây sức ép lên thị trường hàng hóa thế giới, trong đó các mặt hàng nông sản, nguyên liệu công nghiệp và kim loại có sự phân hóa mạnh.
Ảnh Internet

Ảnh Internet

Năng lượng: Giá dầu diễn biến trái chiều, giá khí đốt lùi về mức thấp nhất 7 tháng

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thế giới tăng trong phiên cuối tuần qua 21/10 do hy vọng về nhu cầu của Trung Quốc mạnh hơn. Để chống lại lạm phát, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đang cố gắng làm chậm lại nền kinh tế và sẽ tiếp tục giữ mục tiêu tăng lãi suất trong ngắn hạn và điều này ảnh hưởng tới giá dầu.

Cụ thể, kết thúc phiên 21/10, dầu thô Brent tăng 1,12 USD (+1,2%) lên 93,5 USD/thùng, còn dầu WTI tăng 54 US cent (+0,6%) lên 85,05 USD/thùng. Tính chung cả tuần, dầu Brent tăng 2%, trong khi dầu WTI giảm 0,7%.

Trung Quốc, nhà nhập khẩu dầu thô lớn nhất thế giới, đã tuân thủ các quy định nghiêm ngặt về Covid-19 trong năm nay, tác động đến hoạt động kinh doanh và kinh tế, đồng thời làm giảm nhu cầu về nhiên liệu.

Trong khi đó, số lượng giàn khoan dầu khí của Hoa Kỳ, một chỉ báo ban đầu về sản lượng trong tương lai, đã tăng thêm 2 giàn lên 771 giàn trong tuần qua tính đến ngày 21/10, Công ty Dịch vụ năng lượng Baker Hughes Co BKR.N cho biết.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng tại Mỹ giảm trong thứ Sáu (ngày 21/10) xuống mức thấp nhất 7 tháng. Giá khí đốt giảm trong nhiều tuần qua do dự báo về thời tiết ôn hòa, sản lượng kỷ lục và lượng khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) xuất khẩu thấp cho phép các công ty tiện ích cung cấp nhiều khí đốt hơn bình thường trước mùa đông.

Cụ thể, hợp đồng khí đốt giao sau giảm 39,9 cent (-7,4%) xuống 4,959 USD/triệu đơn vị nhiệt Anh (mmBtu), mức đóng cửa thấp nhất kể từ ngày 21/3/2022. Tính cả tuần, hợp đồng này giảm khoảng 23% - mức giảm hàng tuần lớn nhất kể từ khi giảm 24% vào tháng 12/2021.

Dẫu vậy, tính từ đầu năm tới nay, giá khí đốt vẫn tăng khoảng 33% do giá toàn cầu tăng cao, nhu cầu cho hàng xuất khẩu của Mỹ tăng do gián đoạn nguồn cung.

Nhà cung cấp dữ liệu Refinitiv cho biết, sản lượng khí đốt trung bình ở 48 tiểu bang của Hoa Kỳ đã tăng lên 99,5 bcfd cho đến nay vào tháng 10/2022, tăng từ mức kỷ lục hàng tháng là 99,4 bcfd vào tháng 9/2022.

Refinitiv dự báo, nhu cầu khí đốt trung bình của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ giảm từ 100,1 bcfd trong tuần qua xuống 94,2 bcfd vào tuần này với thời tiết ôn hòa hơn, trước khi tăng lên 96,9 bcfd trong 2 tuần tới do thời tiết lạnh hơn.

Kim loại: Kim loại quý tăng giá, trừ palladium; giá kim loại công nghiệp giảm, trừ đồng; quặng sắt, thép biến động trái chiều

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tăng do USD suy yếu trong bối cảnh báo cáo về khả năng một cuộc tranh luận giữa các quan chức Fed về tốc độ tăng lãi suất.

Cụ thể, vàng giao ngay tăng 1,5% lên 1.652,21 USD/ounce. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 12/2022 cũng tăng 1,2% lên 1.656,3 USD/ounce.

Tạp chí Phố Wall báo cáo rằng, các quan chức Fed đang chuẩn bị tăng tiếp lãi suất thêm 0,75 điểm phần trăm trong tháng 11 tới, trong khi một số khác bắt đầu báo hiệu muốn sớm giảm tốc độ tăng. Vàng nhạy cảm với việc tăng lãi suất. Giá vàng đã tăng 0,6% trong tuần qua, sau khi phục hồi từ mức thấp nhất kể từ cuối tháng 9/2022.

Chỉ số USD giảm 0,6% khiến vàng rẻ hơn cho người mua bằng đồng ngoại tệ khác.

Nhu cầu vàng tại Ấn Độ tăng nhanh do một số người mua vào trước lễ hội khi giá trong nước giảm.

Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 2,7% lên 19,16 USD/ounce; bạch kim tăng 1,9% lên 931,00 USD/ounce; trong khi palladium giảm 1,8% xuống 2.020,34 USD/ounce.

Ở nhóm kim loại công nghiệp, giá nhôm giảm trong tuần qua do lo sợ lãi suất của Mỹ tăng nhanh làm giảm triển vọng tăng trưởng kinh tế và nhu cầu kim loại.

Trong phiên cuối tuần 21/10, lợi suất trái phiếu Kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm đạt mức cao nhất kể từ năm 2007 và đồng CNY của Trung Quốc giảm xuống mức thấp nhất so với USD kể từ năm 2008, khiến kim loại được định giá bằng USD này đắt hơn cho người mua ở Trung Quốc.

Nguồn cung dồi dào cũng khiến nhôm chịu áp lực giảm giá. Cụ thể, giá nhôm giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch LME tăng 0,4% lên 2.218 USD/tấn.

Giá nhôm đã giảm khoảng 45% từ mức đỉnh hồi tháng 3/2022 do việc phong tỏa Covid-19 tại Trung Quốc và lãi suất ở Mỹ tăng nhanh, đồng thời nền kinh tế toàn cầu suy yếu.

Với những kim loại công nghiệp khác, giá đồng trên sàn LME tăng 1% lên 7.636 USD/tấn; kẽm giảm 0,7% về 2.944 USD/tấn; niken giảm 1% về 21.965 USD/tấn; chì giảm 4,1% về 1.896 USD/tấn và thiếc giảm 3% về 18.770 USD/tấn.

Giá quặng sắt tại Singapore tăng trong phiên 21/10 sau khi lùi xuống mức thấp nhất năm 2022 trong phiên liền trước. Cụ thể, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 11/2022 tăng 1% lên 90,7 USD/tấn, trong phiên có thời điểm tăng lên mức 91,75 USD/tấn, nhưng vẫn ghi nhận tuần giảm thứ 6 liên tiếp do lo lắng về triển vọng nhu cầu toàn cầu.

Tại thị trường giao ngay, quặng sắt giảm xuống mức thấp nhất 11 tháng tại 93 USD/tấn trong ngày 20/10.

Trên sàn Đại Liên, giá quặng sắt giao tháng 1/2023 tăng 0,1% lên 676,5 CNY (93,35 USD)/tấn và có tuần giảm giá thứ 2 liên tiếp.

Ngân hàng ANZ đã hạ giá mục tiêu ngắn hạn đối với quặng sắt xuống 85 USD/tấn, mục tiêu 12 tháng là 80 USD/tấn.

Tại Thượng Hải, giá thép thanh tăng 0,2%; thép cuộn cán nóng tăng 0,3%; thép không gỉ giảm 0,6%.

Hiệp hội Thép Thế giới dự đoán nhu cầu thép toàn cầu giảm 2,3% trong năm nay do những nguy cơ suy thoái cộng với những hạn chế về Covid-19 và lĩnh vực bất động sản suy yếu ở Trung Quốc.

Nông sản: Đồng loạt tăng giá

Giá ngô, lúa mì và đậu tương của Mỹ tăng trong phiên 21/10 nhờ các thị trường bên ngoài. Thị trường giao ngay mạnh đã củng cố ngô và đậu tương do người dùng cuối trong nước tìm cách mua vào, trước khi nông dân đưa nguồn cung mới thu hoạch vào kho dự trữ.

Cụ thể, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2022 trên Sàn giao dịch Chicago tăng 4 US cent lên 13,95-1/2 USD/bushel. Ngô CBOT kỳ hạn tháng 12/2022 tăng 1/4 US cent lên 6,84-1/4 USD/bushel. Lúa mì mềm đỏ vụ đông cùng kỳ hạn tăng 1-1/2 US cent lên 8,50-3/4 USD/bushel.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đồng loạt giảm

Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 đóng cửa phiên 21/10 ít biến động quanh mức 18,38 US cent/lb, giá đã xuống mức thấp nhất 2 tuần tại 18,26 US cent/lb. Hợp đồng này đã mất 2,44% trong tuần qua.

Đường trắng kỳ hạn tháng 12/2022 tăng 5,1 USD (+1%) lên 533 USD/tấn trong phiên cuối qua, nhưng cả tuần vẫn giảm 4,7%.

Các đại lý cho biết, thị trường đang theo hướng giảm giá trong bối cảnh ngày càng nhiều quan điểm cho rằng dư thừa sản lượng ở quy mô lớn trên toàn cầu ở niên vụ mới bắt đầu trong tháng 10/2022, đặc biệt nếu nhu cầu bắt đầu giảm khi tăng trưởng kinh tế đình trệ.

Cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2022 giảm 0,15 US cent (-0,1%) xuống 1,909 USD/lb, giá đã chạm mức thấp nhất kể từ tháng 9/2021 tại 1.8620 USD/lb. Như vậy, arabica đã giảm 2,95% trong tuần và giảm 12,76% trong 2 tuần qua.

Cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2023 cũng giảm 45 USD (-2,2%) xuống 1.996 USD/tấn.

Cà phê đã giảm bớt những lo ngại về tồn kho toàn cầu bị thắt chặt, thay vào đó là giảm do triển vọng thời tiết cải thiện và tiêu thụ đang xấu đi.

Công ty Tư vấn Safras & Mercado cho biết, niên vụ cà phê 2022-2023 của Brazil dự báo ở mức 57,3 triệu bao loại 60 kg/bao so với ước tính hồi tháng 9/2022 là 58,2 triệu bao. Các đại lý lưu ý rằng, doanh số bán cà phê tại Brazil gần như đình trệ khi nông dân không muốn giao dịch ở mức giá thấp.

Giá cao su tại Nhật Bản giảm theo xu hướng thị trường Thượng Hải và chứng khoán trong nước giảm. Cụ thể, hợp đồng cao su giao tháng 3/2023 trên Sàn giao dịch Osaka giảm 4,2 JPY (-1,9%) xuống 221,2 JPY (1,47 USD)/kg, cả tuần giảm khoảng 3,5%.

Tại Thượng Hải, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1/2023 giảm 95 CNY xuống 12.340 CNY (1.703,36 USD)/tấn.

Chỉ số chứng khoán Nikkei của Nhật Bản đóng cửa giảm 0,43%.

Thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc đã thực hiện các biện pháp để ngăn chặn Covid. Tuy nhiên, Bắc Kinh cũng đang xem xét giảm thời gian cách ly với du khách từ 10 ngày xuống 7 ngày.

Sản lượng cao su tại Thái Lan có thể bị ảnh hưởng bởi dự báo mưa lớn tiếp tục và cảnh báo lũ lụt tại các địa phương trồng cao su truyền thống.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

Tin bài liên quan