PGS-TS. Nguyễn Đào Tùng, Giám đốc Học viện Tài chính.
Theo PGS-TS. Nguyễn Đào Tùng, Giám đốc Học viện Tài chính, từ nghị quyết đến cuộc sống phải có sự quyết tâm rất lớn thì kinh tế tư nhân mới trở thành trụ cột.
Theo ông, kinh tế tư nhân đã có sự phát triển như thế nào trong thời gian qua?
Giai đoạn 2010 - 2024, tốc độ tăng trưởng của thành phần kinh tế ngoài nhà nước chỉ ở mức 6,45%, cao hơn so với khu vực nhà nước (tăng 4,6%), nhưng thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp FDI (tăng 7,92%) và cao hơn không đáng kể so với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 6,06%. Như vậy, về tổng thể, sự phát triển của khu vực tư nhân những năm gần đây chỉ ở mức trung bình, dù về số lượng, doanh nghiệp thành lập mới và đang hoạt động gia tăng đáng kể.
Nếu năm 2010, khu vực kinh tế ngoài nhà nước chiếm khoảng 49,7% GDP, thì hiện khoảng 51%, tức là thay đổi không đáng kể. Trong khi đó, tỷ trọng của khu vực FDI đã tăng từ 15,1% lên 20,3%.
Điểm đáng chú ý là, trong khi tỷ trọng đóng góp vào GDP tăng rất chậm, thì tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên nhanh chóng, từ mức 44,6% năm 2010 lên mức 55,9% năm 2024, còn tỷ trọng của doanh nghiệp FDI lại giảm từ 20,5% xuống còn 16,5%.
Điều này cho thấy, hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước thấp hơn nhiều so với khu vực FDI. Trong giai đoạn 2015-2024, tỷ suất lợi nhuận/doanh thu trung bình của khu vực tư nhân chỉ ở mức 2,1%, trong khi con số của doanh nghiệp nhà nước và FDI đạt 6,6% và 5,7%.
Ông có cho rằng, sức khỏe của khu vực tư nhân còn yếu do xuất phát điểm thấp và đang gặp nhiều thách thức?
Tất cả các nghiên cứu đều chỉ ra rằng, thách thức đầu tiên đối với khu vực này là nguồn vốn. Đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, vốn là yếu tố then chốt để tăng trưởng trong giai đoạn đã qua và giai đoạn tới. Doanh nghiệp tư nhân cũng vậy, nhất là doanh nghiệp mới gia nhập thị trường.
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tính đến ngày 30/6/2025, có khoảng 209.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa phát sinh dư nợ tại tổ chức tín dụng, với dư nợ chỉ chiếm 17,51% tổng dư nợ toàn hệ thống ngân hàng. Như vậy, có tới 78% doanh nghiệp nhỏ và vừa không tiếp cận được vốn ngân hàng.
Không tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng, doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa buộc phải sử dụng vốn tự có hoặc vốn vay không chính thức. Nguồn vốn này chắc chắn không đáp ứng được nhu cầu của sản xuất, kinh doanh và phải trả lãi suất cao hơn vốn vay tín dụng.
Nguyên nhân chính là cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay không hấp dẫn đối với ngân hàng thương mại, bởi chi phí quản lý các khoản vay nhỏ cao hơn so với khoản vay lớn. Đó là chưa kể các rủi ro phát sinh khi hoạt động kinh doanh thiếu ổn định, hồ sơ vay vốn thường thiếu thuyết phục, tính minh bạch chưa cao.
Trình độ quản lý thấp, phương án kinh doanh thiếu bài bản, không có tài sản thế chấp cũng là nguyên nhân khiến các nhà băng chưa tin tưởng vào doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Bên cạnh thiếu vốn, doanh nghiệp tư nhân còn gặp khó khăn nào khác?
Tỷ lệ người lao động Việt Nam có bằng cấp, chứng chỉ đạt khoảng 29,2%; trong đó số người lao động có trình độ tay nghề hay chuyên môn kỹ thuật cao chiếm tỷ lệ thấp hơn nhiều. Đây là nguyên nhân khiến năng suất lao động của Việt Nam rất thấp, năm 2025 đạt chưa đến 222 triệu đồng và năm 2026 dự kiến chỉ đạt 245,5 triệu đồng.
Khi thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, lao động có kinh nghiệm, tay nghề, kỹ năng, ngoại ngữ, thì doanh nghiệp nhỏ và vừa khó cạnh tranh với doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nhà nước. Cả vốn lẫn nhân lực chất lượng cao đều thiếu là thách thức rất lớn đối với khu vực doanh nghiệp tư nhân nói chung, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Bên cạnh đó, đổi mới và áp dụng công nghệ; thể chế và môi trường kinh doanh cũng là thách thức của khu vực tư nhân khi vươn lên để trở thành trụ cột của nền kinh tế.
Theo ông, cần giải pháp gì để hóa giải các thách thức trên?
Đã có rất nhiều giải pháp giúp doanh nghiệp tư nhân vay được vốn như thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, giải quyết bài toán tài sản thế chấp khi vay vốn ngân hàng, khuyến khích quỹ đầu tư mạo hiểm rót vốn và hỗ trợ 2% lãi suất vốn vay ngân hàng theo tinh thần của Nghị quyết 198/2025/QH15, Nghị quyết 139/NQ-CP về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân.
Tuy nhiên, để giải quyết bài toán vốn kinh doanh, giải pháp then chốt là doanh nghiệp phải nâng cao năng lực quản lý, công khai, minh bạch tình hình kinh doanh, thực trạng tài chính, đề xuất các phương án kinh doanh khả thi để tiếp cận vốn ngân hàng.
Nhưng đây chỉ là nguồn vốn ngắn hạn, muốn có nguồn vốn dài hạn, các cơ quan quản lý nhà nước cần nghiên cứu thành lập sàn giao dịch chứng khoán dành riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo điều kiện và cơ hội cho cả doanh nghiệp và nhà đầu tư mạo hiểm. Cần đẩy nhanh việc hoàn thiện khung khổ pháp lý cho việc vận hành các hình thức cho vay mới, phi truyền thống như cho vay ngang hàng, gọi vốn cộng đồng…
Nhà nước cũng cần ban hành chính sách hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp trong đào tạo nhân lực; sớm trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình đào tạo, bồi dưỡng 10.000 giám đốc điều hành đến năm 2030; huy động các doanh nhân thành đạt tham gia đào tạo, chia sẻ kinh nghiệm, truyền cảm hứng, , hỗ trợ thiết thực, hiệu quả cho đội ngũ doanh nhân theo tinh thần của Nghị quyết 139/NQ-CP.