Xu hướng thành lập tập đoàn tài chính: Cần có luật riêng cho ngân hàng đầu tư

0:00 / 0:00
0:00
Việt Nam đã manh nha hình thành các tập đoàn song lại chưa có luật về ngân hàng đầu tư, điều này đã tạo ra khoảng trống pháp luật, gây rủi ro cho các ngân hàng, và cả nền kinh tế vĩ mô.

Gần đây, hệ sinh thái của nhiều ngân hàng mở rộng, mô hình tập đoàn tài chính vì thế cũng đang manh nha hình thành. Nhiều ngân hàng đã tuyên bố hoạt động theo mô hình tập đoàn, như MB, VPBank, HDBank...

Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam cho rằng, tại Việt Nam, xu hướng phát triển theo hướng tập đoàn tài chính cũng đã hình thành từ khá lâu, đặc biệt là ở các ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán. Nhiều ngân hàng đã xây dựng mô hình với đầy đủ các mảng: ngân hàng, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ, chứng khoán, công ty quản lý quỹ và sắp tới còn mở rộng sang lĩnh vực tài sản số.

"Việc hình thành mô hình này, xuất phát từ nhu cầu tự nhiên của thị trường. Từ góc nhìn của một cá nhân, khi quá trình tích sản đạt đến một giai đoạn nhất định, ngoài việc gửi tiết kiệm, người ta sẽ muốn đầu tư vào bất động sản, trái phiếu, cổ phiếu và sắp tới là cả tài sản số. Vậy tổ chức nào có thể đáp ứng được tất cả các nhu cầu đó, với nguồn lực về vốn và nhân sự đủ mạnh? Tôi cho rằng chỉ có ngân hàng mới có thể làm được điều này. Nếu nhìn ở góc độ cá nhân là một chủ doanh nghiệp, ở giai đoạn còn là hộ kinh doanh hay SME, họ chỉ cần những dịch vụ ngân hàng cơ bản. Nhưng khi doanh nghiệp phát triển hơn, họ sẽ cần các dịch vụ cao cấp hơn, gọi là Private Banking. Hiện nay, nhu cầu về quản lý tài sản ngày càng đa dạng, bao gồm nhiều lớp tài sản khác nhau. Vì vậy, bất kỳ ngân hàng nào muốn tham gia nghiêm túc vào lĩnh vực Wealth Management đều phải có xu hướng hướng tới mô hình tập đoàn tài chính", ông Thành phân tích.

Còn theo TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni, việc hình thành nên tập đoàn tài chính là cần thiết. Theo chuyên gia này, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn đang giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn cho nền kinh tế nhưng đang gặp phải thách thức là mất cân đối cơ cấu kỳ hạn (huy động chủ yếu vốn ngắn hạn nhưng nhu cầu cho vay của nền kinh tế chủ yếu lại là dài hạn). Để giải bài toán này, vai trò của ngân hàng đầu tư là rất cần thiết song lại đang tồn tại khoảng trống pháp lý về vấn đề này.

"Đến nay, chúng ta vẫn chưa có luật về ngân hàng đầu tư, chính điều này tạo ra khoảng trống pháp luật, gây rủi ro cho các ngân hàng, thậm chí rủi ro cho cả nền kinh tế vi mô. Việc có những hành lang pháp lý để thành lập ra các ngân hàng đầu tư là rất cần thiết", TS. Nguyễn Tú Anh đề nghị.

Theo chuyên gia này, ngân hàng đầu tư sẽ giúp giải quyết hai vấn đề. Thứ nhất, sẽ giải quyết được việc chứng khoán hóa các khoản vay. Theo đó, chúng ta có thể chuyển các khoản vay dài hạn của hệ thống ngân hàng cho các dự án lớn như như hạ tầng (ví dụ tài trợ và sau khi xây xong trong hai năm, bắt đầu đi vào hoạt động thì chứng khoán hóa giúp bán được trên thị trường). Như vậy, ngân hàng có thể rút được tiền ngắn hạn và cuối cùng lại đầu tư vào những dự án khác, giúp tạo sự kết nối giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn rất chặt chẽ.

Thứ hai, giúp giải quyết được một vấn đề lớn khác, đó là rào cản để đầu tư vào doanh nghiệp. Ngân hàng đầu tư được thành lập sẽ cho phép các ngân hàng được đầu tư vào các doanh nghiệp lớn, các dự án lớn có tác động lan tỏa đến cả nền kinh tế.

Hình thành hàng lang pháp lý về ngân hàng đầu tư, tách biệt ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư, thành lập tập đoàn tài chính... là những bước đi cần thiết cho thị trường Việt Nam.

Mặc dù vậy, cũng có ý kiến cho rằng, nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa trưởng thành trong khi hệ thống ngân hàng đang phát triển nhanh hơn. Vì vậy, việc thành lập các tập đoàn tài chính sẽ có “độ vênh” với nền kinh tế.

TS. Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế cho rằng, tình trạng này sẽ đặt ra hai vấn đề. Thứ nhất, cần xem xét việc phát triển tập đoàn tài chính sẽ hỗ trợ quá trình chuyển đổi kinh tế như thế nào, và đóng góp ra sao trong việc mở rộng cơ cấu khách hàng.

Thứ hai, phát triển mô hình tập đoàn tài chính cũng đặt ra thách thức lớn về quản lý. Dù quản lý nhà nước của Việt Nam đã có nhiều cải cách song tốc độ vẫn chậm so với sự phát triển của hệ thống ngân hàng.

Vì vậy, khi phát triển mô hình tập đoàn tài chính, việc dung hòa giữa năng lực quản lý của nhà nước và sự phát triển của các tập đoàn này là vấn đề đặt ra.

“Thực tế, ngay cả khi chưa có những tập đoàn tài chính quy mô lớn, chúng ta đã thấy rõ thách thức này. Vậy nếu các tập đoàn này phát triển mạnh, liệu nhà nước có quản lý nổi không? Và nếu không, nguy cơ như sở hữu chéo, rủi ro hệ thống... hoàn toàn có thể xảy ra”, ông Cường cảnh báo.

Theo chuyên gia này, trên thế giới, có những quốc gia như Mỹ, Trung Quốc và một số nước châu Á phát triển mô hình tập đoàn tài chính. Tuy vậy, có những quốc gia, đặc biệt là Bắc Âu không lựa chọn các siêu tập đoàn mà tập trung phát triển các doanh nghiệp chuyên sâu trong từng lĩnh vực (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm...) với hệ thống quản trị hiệu quả.

Chuyên gia cho rằng, mô hình tập đoàn tài chính thường đi kèm vai trò “kiến tạo” của nhà nước, thay vì quản lý chặt chẽ. Ngược lại, mô hình chuyên sâu đòi hỏi hệ thống giám sát chặt nhưng linh hoạt.

Tin bài liên quan