Bởi lẽ, những ai mong muốn có được chứng chỉ hành nghề chứng khoán sẽ không còn bắt buộc phải theo đuổi 3 khoá học ở SRTC, thay vào đó là trải qua một kỳ thi sát hạch do UBCKNN tổ chức. Theo ông Đinh Quốc Thắng, Phó tổng giám đốc CTCK Tràng An, việc chấm dứt độc quyền của SRTC trong công tác đào tạo chứng khoán như hiện nay sẽ làm nguồn cung chứng chỉ hành nghề chứng khoán dồi dào lên và khi đó “chứng chỉ hành nghề” sẽ không còn đắt giá như hiện nay. Hơn nữa, việc này sẽ tháo gỡ tình trạng, một số người được đào tạo chuyên sâu về chứng khoán, nhưng vì lý do khách quan từ sự quá tải trong công tác đào tạo mà đánh mất cơ hội làm việc tại các CTCK. Thực tế, một số nước cũng không đặt điều kiện người hành nghề chứng khoán phải được đào tạo trong môi trường nào, cơ sở nào, thậm chí cũng không phải tốt nghiệp đại học, mà chỉ đặt ra yêu cầu chứng chỉ hành nghề như một điều kiện bắt buộc.
Theo tìm hiểu của ĐTCK, có không ít cá nhân và tổ chức “ngoại đạo” (hoạt động trong lĩnh vực không chuyên về chứng khoán) vẫn tham gia các lớp đào tạo, nhằm giành trọn bộ ba chứng chỉ hành nghề chứng khoán. Có thể nhìn nhận rằng, chứng chỉ hành nghề này trở nên hấp dẫn bởi nguồn thu nhập được đánh giá là không nhỏ của đội ngũ nhân viên đang làm việc tại các CTCK. Nhiều nhân viên đang làm việc tại các tổ chức nước ngoài như Citi Bank, ADB cũng theo đuổi chứng chỉ hành nghề chứng khoán như một hình thức “sơ cua” càng cho thấy, tiềm năng rất lớn của loại chứng chỉ này.
Tuy nhiên, chất lượng đào tạo cũng như giá trị của chứng chỉ hành nghề tại thời điểm chấm dứt sự độc quyền của SRTC liệu có bị ảnh hưởng khi SRTC từ trước đến nay vẫn được xem như cái nôi đào tạo về chứng khoán?
Mặc dù Giám đốc SRTC Đào Lê Minh từ chối trả lời câu hỏi này nhưng có thể dễ dàng nhìn nhận rằng, việc xã hội hoá trong đào tạo chứng khoán sẽ ít nhiều gây ra những xáo trộn mà bước đầu được đánh giá là không nhỏ. Đơn cử, việc đào tạo bộ môn Luật, bên cạnh những đòi hỏi kiến thức chuyên sâu cũng như thực tiễn pháp lý thì điều kiện để hiểu được tinh thần Luật là không đơn giản, khi trong thực tiễn đào tạo bộ môn này, hoàn toàn là do các chuyên gia thuộc UBCKNN, những người trực tiếp xây dựng Luật Chứng khoán và có thâm niên trong công tác giảng dạy. Do đó, lời kiến nghị chỉ xã hội hoá 2 nội dung đào tạo thuộc bộ môn cơ bản và phân tích, còn dành riêng “đất” cho các chuyên gia thuộc UBCKNN, cụ thể là SRTC đảm nhiệm giảng dạy môn Luật là hoàn toàn có cơ sở.
Việc cấp chứng chỉ hành nghề vĩnh viễn trong thời gian tới, thay vì chỉ có thời hạn 2-3 năm như hiện nay đã cho thấy, nỗ lực không nhỏ trong công tác cấp chứng chỉ hành nghề của cơ quan quản lý. Khi đó, người có chứng chỉ hành nghề chỉ trải qua đợt tập huấn Luật, định kỳ 1-2 lần/năm hoặc có thể nhiều hơn theo yêu cầu, thường được tổ chức vào trước thời gian diễn ra các đợt sát hạch cấp chứng chỉ hành nghề. Vấn đề kiểm soát chặt chẽ kỳ thi sát hạch cấp chứng chỉ đi đôi với việc nâng cao chất lượng đầu ra càng trở nên bức thiết.
Câu hỏi về tính đắt giá của chứng chỉ hành nghề đã tìm ra lời giải đáp, song điều mà không ít người quan ngại là, liệu việc mở rộng phạm vi hoạt động đào tạo sang các cơ sở khác có khắc phục được mô hình đào tạo mang nặng tính lý thuyết trong cả 2 hình thức đào tạo hành nghề lẫn phổ cập chứng khoán như hiện nay, đồng thời tăng cường tính thực tiễn theo kiểu “học đi đôi với hành”, hiện bị xem là yếu và thiếu trong công tác giáo dục nói chung tại Việt Nam.
Linh Nga
Các tin liên quan:
>>Chấm dứt độc quyền trong đào tạo CK?