Trong giai đoạn 2006 - 2010, có 669 đề án XTTM được phê duyệt với tổng kinh phí 620,2 tỷ đồng

Trong giai đoạn 2006 - 2010, có 669 đề án XTTM được phê duyệt với tổng kinh phí 620,2 tỷ đồng

Chương trình XTTM quốc gia: Chấm dứt chế độ "ăn không"

(ĐTCK-online) Quy chế về việc xây dựng, quản lý và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại (XTTM) quốc gia được áp dụng từ đầu năm 2011 trở đi được nhận định sẽ làm tăng tính chủ động cho doanh nghiệp và tăng độ phủ diện được ưu tiên so với quy chế trước đây.

Quy chế mới kết hợp cả nội dung Chương trình XTTM định hướng xuất khẩu, Chương trình XTTM thị trường trong nước và Chương trình XTTM miền núi, biên giới và hải đảo với nhiều nội dung mới. Quy chế cũng quy định chi tiết và cụ thể hơn nội dung hỗ trợ, nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị chủ trì Chương trình có thể xây dựng, triển khai đề án hiệu quả hơn. Nguồn kinh phí nhà nước hỗ trợ cho Chương trình được giao cho Bộ Công Thương ngay từ đầu năm và nằm trong tổng dự toán chi ngân sách hàng năm của bộ này. Điều này sẽ tạo điều kiện đẩy nhanh việc phê duyệt, cấp kinh phí và triển khai đề án của các đơn vị chủ trì, tạo điều kiện để doanh nghiệp có thể tích cực tham gia các hoạt động XTTM ngay từ đầu năm như thông lệ quốc tế, tăng cường hiệu quả Chương trình XTTM quốc gia, giúp doanh nghiệp tận dụng triệt để các cơ hội kinh doanh.

Điều kiện hỗ trợ được cụ thể hoá và tăng mức hỗ trợ đối với những nội dung khuyến khích thực hiện như đón đoàn nhập khẩu vào Việt Nam mua hàng. Quy chế cũng quy định các điều kiện cụ thể, chặt chẽ hơn đối với việc xây dựng và phê duyệt đề án để tăng cường hiệu quả và chất lượng hoạt động XTTM ở nước ngoài. Điểm mới của Quy chế là việc tạo điều kiện phê duyệt và thực hiện các đề án dài hạn. Đối với các đề án mà quá trình thực hiện kéo dài qua 2 năm tài chính, Bộ Công Thương sẽ xem xét phê duyệt về nội dung 1 lần và cấp kinh phí hỗ trợ từng năm, theo tiến độ được phê duyệt trong đề án. Việc này cũng nhằm tạo điều kiện thời gian để đơn vị chủ trì Chương trình có thời gian chuẩn bị kỹ cho việc thực hiện những đề án đầu năm ngay từ năm trước năm kế hoạch.

Quy chế quy định cụ thể hơn các trường hợp điều chỉnh và chấm dứt việc thực hiện đề án, nhằm ràng buộc thêm trách nhiệm của các đơn vị chủ trì Chương trình trong việc triển khai và quản lý thực hiện đề án XTTM. Đối với kinh phí còn dư từ việc điều chỉnh hoặc chấm dứt thực hiện đề án, Bộ Công Thương sẽ thực hiện việc điều chuyển khoản kinh phí này để phê duyệt các đề án mới.

Chính phủ giao Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào Quy chế xây dựng nội dung XTTM và mức hỗ trợ kinh phí phù hợp với thực tế của địa phương. Nguồn kinh phí hỗ trợ hoạt động XTTM của các địa phương được thực hiện trực tiếp từ nguồn ngân sách địa phương và các nguồn tài chính hợp pháp khác. Bộ trưởng Bộ Công Thương xem xét phê duyệt các đề án XTTM thuộc Chương trình XTTM quốc gia thực hiện tại địa phương có hỗ trợ từ ngân sách Trung ương.

XTTM thị trường nội địa, sẽ bao gồm: tổ chức các hội chợ triển lãm; tổ chức hoạt động bán hàng; khảo sát thị trường; tuyên truyền về hàng hoá, dịch vụ Việt Nam ; hỗ trợ quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ tầng; đào tạo nhân lực... XTTM biên giới, miền núi, hải đảo sẽ bao gồm: phát triển hệ thống phân phối hàng Việt; xây dựng và cung cấp thông tin thị trường biên giới; tổ chức các hoạt động giao dịch thương mại và đưa hàng vào khu kinh tế cửa khẩu; tổ chức và phát triển phân phối hàng Việt sang các khu vực biên giới với các nước có chung đường biên; nâng cao năng lực. Với những quy định mới, các nhà sản xuất, phân phối kỳ vọng thị trường nội địa sẽ có bước tăng trưởng ấn tượng.

Điều doanh nghiệp mong mỏi là cần cụ thể hóa việc đơn giản về thủ tục hành chính cho đơn vị chủ trì các chương trình XTTM và doanh nghiệp, đơn vị tham gia chương trình. Đặc biệt là tạo cơ chế thuận lợi để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội được tham gia nhiều nội dung XTTM.

Giám đốc một công ty xuất nhập khẩu tại Hà Nội cho hay, kinh phí XTTM được ngân sách nhà nước cấp nên các chương trình thường được duyệt theo cơ chế xin - cho, hoặc cơ quan chủ quản thông báo muộn, dẫn đến phê duyệt chậm hoặc phải điều chỉnh. Nhiều chương trình không được triển khai ngay đúng mùa XTTM theo thông lệ quốc tế, mà thường bị dồn toa vào cuối năm, hiệu quả không cao. Điểm mới mà vị giám đốc này tâm đắc là các doanh nghiệp tham gia chương trình XTTM thay vì "ăn không", từ năm 2011 phải có vốn đối ứng để nâng cao trách nhiệm trong việc thực hiện.

Trong giai đoạn 2006 - 2010, Bộ Công Thương đã phê duyệt tổng cộng 669 đề án với tổng kinh phí là 620,2 tỷ đồng. Tính đến năm 2009, đã có 18.033 lượt doanh nghiệp tham gia các đề án thuộc chương trình XTTM quốc gia, ký kết được 8.932 hợp đồng và biên bản ghi nhớ trị giá 2,431 tỷ USD.