Cơ hội để doanh nghiệp nhà nước bứt phá

0:00 / 0:00
0:00
Bộ Tài chính đang được giao nghiên cứu, đề xuất ban hành Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Ông Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam

Ông Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam

Theo ông Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam, cùng với Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp (năm 2025), nghị quyết này được ban hành sẽ tạo cơ hội để DNNN bứt phá, phát triển xứng tầm.

Ông đánh giá thế nào về hiệu quả hoạt động của khu vực DNNN trong thời gian qua?

Năm 2016, cả nước có 583 doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ. Thực hiện Nghị quyết số 12/NQ-TW, ngày 3/6/2017 về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, đến đầu năm 2024, chỉ còn 473 đơn vị do Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ và 198 đơn vị do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ.

Báo cáo của Bộ Tài chính về hoạt động của DNNN gửi Quốc hội khóa XV tại kỳ họp thứ tám (tháng 10/2024) cho biết, so với năm 2023, tổng tài sản của DNNN tăng 2%, vốn chủ sở hữu tăng 3%, lãi bình quân trước thuế/vốn chủ sở hữu là 11%. Như vậy, nhìn chung, hoạt động của DNNN vẫn hiệu quả, tuy không cao bằng khu vực khác.

Đánh giá chung về khu vực DNNN kể từ năm 2016 đến nay, Bộ Tài chính cho rằng, khu vực kinh tế này đã thực hiện được vai trò, nhiệm vụ chủ sở hữu vốn giao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết kinh tế, ổn định vĩ mô, bảo đảm cân đối lớn của nền kinh tế; có sự tăng trưởng đáng kể về quy mô doanh nghiệp và có đóng góp số thu cho ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, doanh nghiệp có vốn nhà nước vẫn tiếp tục đóng vai trò thực hiện nhiệm vụ cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích như năng lượng, kết cấu hạ tầng, dịch vụ viễn thông. Những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế vẫn đang được các doanh nghiệp có vốn nhà nước phát huy thế mạnh trong nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, khu vực này đang tạo việc làm cho khoảng 1 triệu người lao động có mức thu nhập ổn định và cao hơn so với mặt bằng chung của khu vực doanh nghiệp.

Theo ông, vì sao hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước thấp hơn khu vực doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài?

Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc này là khu vực DNNN bị hạn chế đầu tư. Cụ thể, chỉ đầu tư vốn nhà nước vào 4 lĩnh vực: cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội; lĩnh vực trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; độc quyền tự nhiên; ứng dụng công nghệ cao, đầu tư lớn, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và nền kinh tế.

Ngoài ra, còn nhiều nguyên nhân cản trở sự phát triển của khu vực kinh tế này, như việc sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn chịu sự can thiệp hành chính của cơ quan nhà nước; chưa tách bạch, phân định rõ chức năng quản lý nhà nước với chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp, làm hạn chế tính chủ động, cạnh tranh của DNNN.

Quy định cũ còn đồng nhất vốn và tài sản của doanh nghiệp có vốn nhà nước là vốn tài sản của Nhà nước, dẫn tới còn can thiệp trực tiếp vào hoạt động và quản trị sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Kể từ năm 2011 đến nay, rất nhiều cơ chế pháp lý được ban hành đã tháo gỡ khó khăn cho khu vực này, nhưng vì sao Việt Nam vẫn chưa có những DNNN lớn như tại Trung Quốc, Singapore và nhiều nước trên thế giới, thưa ông?

Chỉ có một số nước trên thế giới không có khu vực kinh tế nhà nước. Trên thực tế, có rất nhiều DNNN của các nước trên thế giới có quy mô “khủng”, sức ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế, không chỉ ở trong nước, mà còn đầu tư ra nước ngoài, cạnh tranh sòng phẳng với các tập đoàn đa quốc gia. Trong đó, có thể kể đến Sinopec, State Grid, China Mobile, CRRC, COSCO Shipping của Trung Quốc; Temasek Holdings, Singapore Airlines của Singapore...

Mẫu số chung tạo ra các DNNN lớn mạnh là vươn ra toàn cầu và hoạt động hiệu quả trong các lĩnh vực chiến lược (năng lượng, viễn thông, hạ tầng, logistics, ngân hàng, hàng không, đầu tư tài chính...) là quản trị chuyên nghiệp, tự chủ, minh bạch, niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, chính phủ không can thiệp trực tiếp vào hoạt động, mà doanh nghiệp được tự chủ, chính phủ chỉ là nhà đầu tư có quyền hạn và trách nhiệm của nhà đầu tư theo tỷ lệ vốn góp.

DNNN của Việt Nam chưa thực sự có được những quyền như trên, nhưng chúng ta cũng đã có không ít DNNN phát triển mạnh mẽ, đã đầu tư ra nước ngoài, cạnh tranh sòng phẳng với các tập đoàn hàng đầu thế giới.

Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp (năm 2025) có hiệu lực kể từ ngày 1/8/2025 với rất nhiều điểm đột phá, tiệm cận thông lệ quốc tế, mở rộng hoạt động đầu tư vốn nhà nước hơn rất nhiều, trả lại quyền tự chủ hoạt động cho doanh nghiệp, hạn chế sự can thiệp của Nhà nước, là cơ hội để khu vực kinh tế này lớn mạnh, có thêm nhiều doanh nghiệp có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Cùng với việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 12/NQ-TW, Bộ Tài chính đang xây dựng nghị quyết mới về cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, sẽ tạo điều kiện hơn nữa để khu vực kinh tế này phát triển mạnh mẽ.

Một trong những rào cản khiến DNNN khó lớn mạnh là quy định về “bảo toàn và phát triển vốn nhà nước”. Thưa ông, trong cơ chế thị trường, không phải lúc nào cũng bảo toàn được vốn. Quan điểm của ông về vấn đề này ra sao?

Một số lĩnh vực kinh doanh bắt buộc phải bảo toàn vốn, không chỉ khu vực nhà nước, mà cả tư nhân cũng vậy, như ngân hàng, bảo hiểm chẳng hạn. Bởi vì, nếu ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm mà không bảo toàn được vốn, thì hệ lụy với nền kinh tế và người dân vô cùng lớn. Nhưng, có những lĩnh vực khó có thể bảo toàn được vốn đối với từng hoạt động đầu tư, như quỹ đầu tư, nhất là quỹ đầu tư mạo hiểm.

Theo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thì Nhà nước đầu tư vốn vào doanh nghiệp phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đầu tư lớn, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và nền kinh tế; doanh nghiệp phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số... Đây đều là những lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, nên yêu cầu “thương vụ đầu tư” nào cũng phải bảo toàn và phát triển vốn, thì không thể thực hiện được, vì đầu tư vào lĩnh vực này rủi ro rất cao, nhưng nếu thành công thì đem lại hiệu quả rất lớn.

Vì vậy, theo tôi, cần quy định rõ ràng, cụ thể về bảo toàn và phát triển vốn để bảo đảm, tạo điều kiện cho lãnh đạo doanh nghiệp dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đồng thời phải kiểm tra, giám sát được vốn nhà nước.

Tin bài liên quan