SJF đã đầu tư 542 tỷ đồng vào các công ty con, trong đó có các doanh nghiệp chuyên về tre gỗ.

SJF đã đầu tư 542 tỷ đồng vào các công ty con, trong đó có các doanh nghiệp chuyên về tre gỗ.

Gỗ tre, cửa sáng của Đầu tư Sao Thái Dương (SJF)

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Quý II năm nay chứng kiến sự bứt phá của Công ty cổ phần Đầu tư Sao Thái Dương (mã SJF - HOSE).

Chuyển biến từ bức tranh tài chính

Báo cáo tài chính bán niên 2021 của SJF cho thấy, quý II năm nay, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ của Công ty đạt 253,9 tỷ đồng, tăng gấp 2,5 lần so với cùng kỳ, lợi nhuận gộp đạt 8 tỷ đồng, bằng 670 lần cùng kỳ.

Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh đạt 1,6 tỷ đồng, cải thiện tích cực so với số lỗ 15,8 tỷ đồng trong cùng kỳ năm ngoái.

Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh 6 tháng đầu năm nay đã dương 25,8 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm trước âm 15,6 tỷ đồng, nhờ khoản mục tiền và tương đương tiền đạt 30,3 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần so với đầu năm.

Doanh thu 6 tháng đầu năm 2021 của SJF đạt 253,9 tỷ đồng, tăng gấp 2,5 lần so với cùng kỳ.

Liên quan đến khoản mục nợ của SJF, điểm đáng chú ý là chi phí tài chính quý II năm nay giảm xuống 5,5 tỷ đồng, bằng 1/3 so với cùng kỳ. Trong khoản mục nợ ngắn hạn tăng từ 163 tỷ đồng lên 259 tỷ đồng, người mua trả tiền trước đạt 158,7 tỷ đồng, tăng mạnh so với 47,6 tỷ đồng.

Với thị giá chưa đến 4.000 đồng/cổ phiếu, vốn hóa của doanh nghiệp này hiện chưa đến 300 tỷ đồng. Trong khi đó, tài sản của doanh nghiệp theo báo cáo tài chính bán niên, đạt 1.081 tỷ đồng.

Sự chuyển biến này đến từ việc Công ty đã tập trung mạnh vào mảng tre gỗ, một phần bán nội địa, một phần xuất khẩu.

SJF đã đầu tư vào các công ty con 542 tỷ đồng, trong đó có các doanh nghiệp chuyên về tre gỗ như BWG Mai Châu, Việt Nga Hòa Bình, Sunstar Bamboo Việt Nam… Xét về tiềm năng thị trường, tập trung vào sản xuất chế biến công nghiệp và tre gỗ là hướng đi phù hợp của Công ty hiện nay.

Trên thế giới, vật liệu được làm từ tre rất được ưa chuộng do có nhiều ưu điểm như độ cứng cao, ít bị trầy xước, có khả năng chịu mài mòn, chịu nhiệt, chịu nước tốt. Các sản phẩm làm từ tre an toàn cho người sử dụng, thân thiện môi trường, tạo không gian xanh, nhiều mẫu mã và độ bền cao, giá cả hợp lý… Vì thế, tre được coi là “thép xanh” và lựa chọn thay thế cho các sản phẩm gỗ đang dần bị khai thác cạn kiệt.

Nhu cầu về tre ép khối tăng liên tục, đặc biệt ở các thị trường phát triển như châu Âu và Bắc Mỹ, để làm các sản phẩm từ ván xây dựng, ván sàn cho đến khung cửa, cầu thang, sản phẩm nội thất và đồ gia dụng.

So với ngành sản xuất gỗ, ngành sản xuất tre công nghiệp mang lại nhiều giá trị gia tăng hơn cho Việt Nam, vì trừ keo ép phải nhập khẩu, các nguyên liệu đầu vào khác đều được cung cấp trong nước. Ngành này còn đem lại nhiều giá trị hơn cho người dân trồng tre so với các ngành khác nên được xem là ngành giúp phát triển bền vững cho vùng miền núi và nông thôn.

Số liệu từ Hiệp hội Gỗ cho thấy, giá trị thương mại toàn cầu ngành tre giai đoạn 2018 - 2019 đạt gần 70 tỷ USD. Nhưng sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là mây tre (sau Trung Quốc, EU và Indonesia), vốn là hàng thủ công mỹ nghệ, chứ không phải hàng công nghiệp, càng không phải nhóm ngành gỗ.

Việt Nam là một trong những nước thuận lợi để phát triển ngành tre công nghiệp với hơn 1,5 triệu ha rừng tre nguyên liệu, chủ yếu tập trung ở khu vực miền núi phía Bắc Thanh Hóa, Nghệ An, Hòa Bình, Sơn La…

Tuy nhiên, mặc dù đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng năm 2005, đến nay, ngành sản xuất vật liệu tre công nghiệp vẫn còn rất nhỏ. Hiện tại, có 5 doanh nghiệp có thể sản xuất tấm tre ép công nghiệp, trong đó phần lớn là quy mô nhỏ.

Chỉ một doanh nghiệp có công suất lớn trên 100.000 m3/năm có thể sản xuất được cả 2 dòng sản phẩm tre ghép thanh và tre ép khối là BWG Mai Châu.

Các doanh nghiệp Việt Nam tiềm lực mỏng, lại thiếu tầm nhìn xa nên chưa có các nghiên cứu bài bản và hoàn chỉnh, chưa mạnh tay đầu tư cho công nghệ sản xuất tre ép khối từ nguồn nguyên liệu trong nước.

Mở ra thị trường tỷ USD

Năm 2020, lần đầu tiên tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu của Viện Nghiên cứu công nghiệp rừng (FIRI), Đại học Lâm nghiệp và Công ty cổ phần BWG Mai Châu đã hợp tác chế tạo thành công vật liệu tre ép khối, mở ra lựa chọn thay thế cho sản phẩm cùng loại nhập khẩu từ Trung Quốc.

Tre ép khối, tên thương mại là Pressed Bamboo Blocks (PBB) hay Strand Woven Bamboo (SWB), là một loại composite đặc biệt của tre, được tạo ra từ các nan tre và một số loại chất kết dính (keo) chuyên dùng, tạo ra sản phẩm có tính chất cơ học tương đương gỗ.

Việc làm chủ công nghệ này đã mở ra cánh cửa mới cho SJF trong việc chế biến hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Công nghệ mới cũng giúp doanh nghiệp không phải sử dụng nhiều nhân công khi mỗi máy đòi hỏi ít công nhân đảm nhận việc đưa nguyên liệu thô và xếp thành phẩm.

Hiện nay, Trung Quốc gần như là nhà sản xuất tre ép khối thương mại duy nhất. Nhiều doanh nghiệp từ quốc gia này gặp khó khăn trong việc bắt kịp tốc độ tiêu thụ toàn cầu và đang ra sức tìm kiếm các thỏa thuận mua tre từ những quốc gia láng giềng nhằm tăng công suất.

Trong khi đó, Việt Nam nằm trong vùng trung tâm phân bố tre của thế giới, sở hữu 121 loài tre trúc, nhưng cho đến nay, cơ cấu giá trị ngành chế biến mây tre là 95% từ nhóm hàng truyền thống và 5% từ nhóm hàng mới, quy mô công nghiệp (tre ép ván làm đồ nội thất hoặc phục vụ xây dựng, than tre hoạt tính, sợi từ tre…).

Bởi vậy, phát triển các sản phẩm tre ép khối thay thế gỗ có thể coi là một hướng đi tiềm năng cho Việt Nam. TS. Nguyễn Quang Trung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu công nghiệp rừng cho biết, nguồn nguyên liệu tre ở Việt Nam rất lớn, giá thu mua nguyên liệu đầu vào rẻ, chỉ bằng 1/3 của Trung Quốc, do đó giá thành sản phẩm sẽ thấp hơn rất nhiều.

Trong khi đó, TS. Nguyễn Trọng Nghĩa, nhà sáng lập BWG Mai Châu nhận định: “Tre công nghiệp ở Việt Nam được dự báo sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới, khi chuỗi giá trị ngành tre được hình thành. Sự chuyển dịch của chuỗi cung ứng sang Việt Nam kết hợp với sự chuyển dịch mạnh mẽ của việc sử dụng vật liệu tre công nghiệp thay thế gỗ đã và đang tạo cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam”.

Cũng theo TS. Nghĩa, với cơ sở vật chất hiện có, các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam có thể sản xuất thêm hoặc chuyển dịch sang sản xuất các sản phẩm từ vật liệu tre theo yêu cầu của khách hàng một cách dễ dàng mà gần như không phải đầu tư thêm.

Sự tham gia của các doanh nghiệp chế biến gỗ tại Việt Nam sẽ giúp hoàn thiện chuỗi giá trị phát triển bền vững cho ngành tre công nghiệp Việt Nam, đồng thời giúp hiện thực hóa tiềm năng giá trị nhiều tỷ USD của ngành tre Việt Nam.

Đại diện SJF cho biết, Công ty đang tiếp tục đầu tư nhà xưởng để gia tăng công suất. Dù kế hoạch này đòi hỏi nguồn lực lớn nhưng đầu ra rất rộng chính là dư địa để Công ty tin tưởng bỏ vốn. Khi khó khăn về logistic được hóa giải, hoạt động xuất khẩu của Công ty sẽ cải thiện mạnh mẽ trong thời gian tới.

Tin bài liên quan