Ngân hàng tuần qua: Trái phiếu bất động sản ấm lại, trái phiếu ngân hàng mắc kẹt, ngân hàng bắt đầu mùa ĐHĐCĐ

Ngoài vấn đề của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, việc triển khai gói 120.000 tỷ, lãi suất hạ nhiệt, rộ tin nhắn lừa đảo mạo danh ngân hàng... là các vấn đề nóng lĩnh vực ngân hàng tuần qua.
Ngân hàng tuần qua: Trái phiếu bất động sản ấm lại, trái phiếu ngân hàng mắc kẹt, ngân hàng bắt đầu mùa ĐHĐCĐ

Bế tắc phát hành trái phiếu riêng lẻ, ngân hàng thương mại kiến nghị Thủ tướng tháo gỡ

Dù là quán quân phát hành trái phiếu riêng lẻ năm 2022, song từ đầu năm 2023 đến nay, hoạt động phát hành trái phiếu của ngân hàng thương mại đóng băng do vướng các quy định của Nghị định 65/2022/NĐ-CP.

Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam vừa có văn bản số 127/HHNH-PLNV gửi Thủ tướng Chính phủ kiến nghị tháo gỡ vướng mắc trong thực hiện Nghị định 65/2022/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ đang khiến hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng (TCTD) gặp không ít khó khăn.

Thứ nhất, về quy định khi phát hành trái phiếu thì Hồ sơ phát hành phải có Báo cáo tình hình sử dụng số tiền thu được từ việc phát hành trái phiếu đối với trái phiếu còn dư nợ (theo Điểm đ Khoản 9, Điểm k Khoản 10 Điều 1 Nghị định 65), các TCTD rất khó thực hiện.

Nguyên do là bởi đặc thù của ngành ngân hàng là hoạt động kinh doanh có điều kiện, dòng tiền lưu thông luân chuyển liên tục, nguồn vốn sau khi được huy động sẽ được hòa lẫn vào tổng nguồn vốn chung (huy động khách hàng, vay vốn nước ngoài, vay/nhận gửi từ các TCTD trong nước…) để sử dụng cho các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng.

Do vậy các TCTD không thể phân định tách bạch, có hệ thống theo dõi riêng nguồn tiền huy động từ phát hành trái phiếu hay từ các hoạt động khác được sử dụng cho các khoản vay, đầu tư cụ thể nào và ngược lại các khoản đã cho vay, đầu tư được lấy từ nguồn vốn cụ thể nào của TCTD. Và càng khó khăn hơn khi vốn huy động từ trái phiếu cho vay đối tượng cụ thể được thu nợ trong khi chưa đến kỳ đáo hạn trái phiếu, nguồn vốn đó sẽ quay vòng đầu tư cho các đối tượng khác .

Thứ hai, về quy định các TCTD phải thực hiện công bố thông tin định kỳ 6 tháng, hàng năm (Điểm c Khoản 16 Điều 1 Nghị định 65). Về nội dung này đến nay 4 công ty kiểm toán lớn có uy tín (KPMG, Ernst&Youg, PwC, Deloilte) không nhận kiểm toán mục đích sử dụng vốn với các trái phiếu còn dư nợ, do các TCTD không thể theo dõi riêng dòng tiền huy động từ phát hành trái phiếu và dòng tiền cho vay ra tương ứng; trong khi hiện nay Bộ Tài chính chưa có thông tư hướng dẫn Nghị định 65 về cách thức thực hiện kiểm toán mục đích sử dụng vốn trái phiếu đối với các doanh nghiệp nói chung và các TCTD nói riêng.

Thứ ba, các TCTD phát hành trái phiếu là để bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư của nền kinh tế song để đủ điều kiện phát hành các TCTD phải tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước về các tỷ lệ đảm an toàn. Hơn nữa hàng năm các TCTD đều chịu sự kiểm tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền về các tỷ lệ an toàn và việc chấp hành các quy định của pháp luật liên quan. Do vậy việc phát hành và sử dụng vốn trái phiếu phát hành trong thời gian qua luôn đảm bảo an toàn và hiệu quả.

Đây là nguồn vốn cần thiết và quan trọng hỗ trợ các TCTD có đủ vốn để đầu tư cho các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh mấy năm gần đây tốc độ tăng trưởng nguồn vốn thấp hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng và thực tế bình quân hàng năm các TCTD phát hành trái phiếu chiếm tỷ lệ từ 30-35% tổng lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành, cá biệt năm 2022 tỷ lệ này lên đến 59% tổng khối lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành. Chính vì vậy năm 2022 tốc độ tăng trưởng huy động vốn thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng tín dụng mà các TCTD vẫn đủ nguồn vốn để cho vay hỗ trợ các doanh nghiệp phục vụ sản xuất kinh doanh. Việc quy định điều kiện các TCTD phát hành trái phiếu riêng lẻ như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác là chưa phù hợp với đặc thù của các TCTD.

Do các vướng mắc nêu trên, kể từ khi Nghị định 65 được ban hành và kể cả Nghị định 08 của Chính phủ mới được ban hành, đến nay, các TCTD không thể thực hiện được việc phát hành mới trái phiếu riêng lẻ trong năm 2023, do không đáp ứng yêu cầu về nội dung tài liệu trong hồ sơ phát hành.

Đặc biệt là các TCTD sẽ vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin theo quy định tại Nghị định 65 (đến ngày 31/3/2023 các TCTD phải công bố thông tin Báo cáo về tình hình sử dụng số tiền thu được từ việc phát hành trái phiếu đối với trái phiếu còn dư nợ năm 2022). Điều này sẽ ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng đến hoạt động cũng như uy tín của các TCTD, niềm tin của nhà đầu tư, có thể tiếp tục dẫn đến những bất ổn trên thị trường tài chính tiền tệ .

Để tháo gỡ kịp thời vướng mắc nêu trên của các TCTD, Hiệp hội Ngân hàng kính đề nghị Chính phủ xem xét sửa đổi quy định tại Nghị định 65/2022/NĐ-CP theo hướng TCTD không phải thực hiện việc báo cáo và kiểm toán báo cáo về tình hình sử dụng số tiền thu được từ việc phát hành trái phiếu đối với trái phiếu còn dư nợ để công bố thông tin định kỳ cũng như làm căn cứ phát hành các đợt trái phiếu mới.

Nội dung này có thể xem xét bổ sung vào Luật TCTD sửa đổi sắp tới hoặc rà soát lại các tỷ lệ an toàn của các TCTD nếu chưa phù hợp thì sửa đổi bổ sung nhằm đảm bảo hoạt động của các TCTD an toàn, hiệu quả trong đó có việc phát hành và sử dụng trái phiếu riêng lẻ.

Ngoài ra, trong thời gian chưa thực hiện kiểm toán được, đề nghị Chính phủ cho phép các TCTD tạm hoãn thực hiện quy định tại Điểm c Khoản 16 Điều 1 Nghị định 65 đến hết 30/6/2023 về việc công bố thông tin định kỳ Báo cáo về tình hình sử dụng số tiền thu được từ việc phát hành trái phiếu đối với trái phiếu còn dư nợ được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán để các TCTD có thời gian lựa chọn đơn vị kiểm toán.

Phát hành trái phiếu doanh nghiệp tăng gấp 13 lần, gần 90% là bất động sản

Số liệu thống kê của Hiệp hội Thị trường trái phiếu cho thấy phát hành trái phiếu doanh nghiệp có sự khởi sắc, song riêng tuần cuối tháng 3/2023 vẫn có 21 lô trái phiếu chậm thanh toán.

Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA) cho biết, trong tháng 3/2023, có 11 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp với tổng giá trị phát hành đạt 26.425 tỷ đồng. Con số này cao gấp 13,2 lần tháng 2/2023. Trong đó, hơn 88,6% lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành mới là của doanh nghiệp bất động sản.

Mặc dù thị trường khởi sắc trở lại, song áp lực mua lại trái phiếu doanh nghiệp trước hạn của doanh nghiệp phát hành vẫn rất lớn. Tổng giá trị trái phiếu đã được các doanh nghiệp mua lại trước hạn trong tháng 3/2023 là gần 14.300 tỷ đồng (tăng 137% so với tháng trước và tăng 64% so với cùng kỳ tháng 3/2022).

Xây dựng và hàng tiêu dùng là 2 nhóm ngành ghi nhận giá trị mua lại lớn nhất trong tháng, lần lượt đạt 5.000 tỷ đồng (chiếm 35% tổng giá trị mua lại) và 3.400 tỷ đồng (chiếm 24% tổng giá trị mua lại). Tính từ đầu năm tới nay, tổng giá trị trái phiếu đã được các doanh nghiệp mua lại đạt hơn 29.860 tỷ đồng (tăng 63% so với cùng kỳ năm 2022).

Đáng lưu ý, tuần trước, vẫn có tới 21 lô trái phiếu thông báo không thanh toán được đúng hạn. Điều này cho thấy áp lực trả nợ của doanh nghiệp vẫn rất lớn. Trong tháng 4/2023, lượng trái phiếu đến hạn ước khoảng 14.540 tỷ đồng. Bất động sản và ngân hàng là hai nhóm ngành có giá trị đến hạn lớn nhất, chiếm 31% và 36% giá trị đến hạn.

Số liệu của FiinGroup cho thấy, tính đến ngày 17/3/2023, đã có 69 tổ chức phát hành có một hoặc nhiều hơn lô trái phiếu lưu hành đã không thể đáp ứng nghĩa vụ nợ với tổng giá trị 94.430 tỷ đồng, chiếm 8,15% giá trị trái phiếu doanh nghiệp đang lưu hành. Trong số 69 doanh nghiệp phát hành này, có 43 doanh nghiệp bất động sản (62,3%) với tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp chậm trả nợ ở mức 78.900 tỷ đồng, chiếm 83,6% với tổng giá trái phiếu doanh nghiệp của các doanh nghiệp chậm trả nợ trái phiếu.

Tính chung toàn ngành, FiinGroup cho hay, ngành năng lượng có tỷ lệ nợ xấu trái phiếu doanh nghiệp cao nhất: 63,1%, song quy mô trái phiếu năng lượng nhỏ và tập trung vào số ít doanh nghiệp (chỉ chiếm 0,3% tổng giá trị lưu hành).

Đáng lo nhất là nợ xấu trái phiếu bất động sản. Ngành bất động sản là ngành có tỷ lệ nợ xấu trái phiếu ở mức 20,17% cao thứ hai sau ngành năng lượng. Trái phiếu doanh nghiệp bất động sản hiện đang có quy mô lưu hành lên tới hơn 396.300 tỷ đồng, chiếm 33,8% tổng giá trị lưu hành.

Tính đến thời điểm này, rất ít doanh nghiệp công bố kế hoạch phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Mới đây, Công ty cổ phần Đầu tư Hạ tầng Kỹ thuật TP.HCM (CII) công bố có kế hoạch trình ĐHĐCĐ thông qua phương án phát hành tổng cộng 4.500 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi, không có tài sản bảo đảm, không kèm theo chứng quyền với kỳ hạn 10 năm cho cổ đông hiện hữu trong năm 2023.

Ngoài ra, CTCP Tập đoàn Masan (MSN) cũng có kế hoạch trình ĐHĐCĐ thông qua phương án phát hành tối đa 500 triệu USD trái phiếu chuyển đổi, không có tài sản bảo đảm, không kèm theo chứng quyền với kỳ hạn 5 năm trên thị trường quốc tế trong năm 2023 và/hoặc 2024.

Nhà ở xã hội: Tiền chờ dự án hay dự án chờ tiền?

Tuần này, gói tín dụng 120.000 tỷ đồng với lãi suất ưu đãi cho vay nhà ở xã hội đã được các ngân hàng thương mại nhà nước triển khai. Băn khoăn lớn nhất là tiền đã có, song dự án chưa có và lãi suất phù hợp với chủ đầu tư hơn là cá nhân.

Sau khi ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra hướng dẫn về triển khai gói tín dụng 120.000 tỷ đồng, giữa tuần này, nhiều ngân hàng cho biết, đã sẵn sàng nguồn tiền để giải ngân. Agribank là ngân hàng đầu tiên ra thông báo về gói tín dụng này, với hạn mức cho vay 30.000 tỷ đồng, khách hàng được áp dụng mức vay tối đa bằng 85% tổng mức đầu tư của phương án, nếu có tài sản thế chấp. Các ngân hàng còn lại trong nhóm Big 4 sẽ dành 30.000 tỷ đồng lãi suất ưu đãi cho vay nhà ở xã hội và đang chuẩn bị triển khai.

Theo các chuyên gia, với lãi vay áp dụng ở mức 8,2%/năm với người mua nhà và 8,7%/năm với chủ đầu tư, gói 120.000 tỷ đồng hấp dẫn chủ đầu tư hơn là người mua nhà. Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội bất động sản TP.HCM (HoREA) cho rằng, lãi suất áp dụng với người mua nhà vẫn rất cao (6 tháng điều chỉnh một lần) và thời hạn 5 năm là quá ngắn. Hết 5 năm, nếu ngân hàng áp dụng lãi vay thương mại, thì khoản vay sẽ trở thành “gánh nặng” với người vay là đối tượng thu nhập thấp, công nhân lao động.

Dù vậy, với doanh nghiệp bất động sản, đây là dòng tiền tươi hết sức cần thiết. Ông Lê Hữu Nghĩa, Giám đốc Công ty Xây dựng Thương mại Lê Thành cho hay, doanh nghiệp này đang phải vay vốn với lãi suất 14%/năm để thực hiện các Dự án nhà ở xã hội, nên sẽ rất vui mừng nếu được vay vốn lãi suất 8,7%/năm. “Gói hỗ trợ này sẽ giúp các chủ đầu tư có thêm động lực triển khai các dự án nhà ở xã hội mới”, ông Nghĩa nói.

Khác với gói tín dụng 30.000 tỷ đồng hỗ trợ từ ngân sách trước đây, gói tín dụng 120.000 tỷ đồng hoàn toàn từ vốn huy động của ngân hàng thương mại (không có cấp bù lãi suất từ ngân sách), nên lãi suất còn khá cao là dễ hiểu, vì giá vốn mà các ngân hàng thương mại huy động hiện nay không hề rẻ.

Vì vậy, HoREA cho rằng, về lâu dài, Chính phủ và Quốc hội cần hoàn thiện chính sách tín dụng về phát triển nhà ở xã hội theo hướng xác định việc đầu tư phát triển nhà ở xã hội cho người lao động có thu nhập thấp là một hạng mục đầu tư trong nguồn vốn trung, dài hạn của địa phương. Theo ông Châu, lãi suất cho vay ở mức 5%/năm, thời hạn vay 25 năm là phù hợp với khả năng của người thu thập thấp.

Dù lãi suất còn khá cao, song trong bối cảnh hàng loạt dự án bất động sản phải dừng lại vì thiếu vốn như hiện nay, gói tín dụng 120.000 tỷ đồng như “luồng ô-xy” bơm vào thị trường. Theo đó, gói tín dụng này vừa tháo gỡ bế tắc dòng tiền, vừa khuyến khích các doanh nghiệp bất động sản tái cơ cấu phân khúc đầu tư.

Tuy nhiên, bên cạnh vấn đề lãi suất, điều khiến nhiều người mua nhà quan tâm hiện nay là nguồn cung nhà ở xã hội. “Vốn là rất quan trọng, song điều quan trọng không kém là chúng ta có lượng hàng hóa để hấp thụ nguồn vốn này hay không. Thực tế hiện nay, số lượng dự án nhà ở xã hội, nhà ở cho người có thu nhập thấp và dự án cải tạo chung cư cũ chưa nhiều”, ông Lê Đình Vinh, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Tập đoàn Everland cho biết.

Theo Đề án Đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030 vừa được Chính phủ phê duyệt, giai đoạn 2021-2025 sẽ hoàn thành khoảng 428.000 căn hộ nhà ở xã hội. Gói tín dụng ưu đãi 120.000 tỷ đồng chính là động lực, song để doanh nghiệp và người dân mạnh dạn vay vốn, cần rất nhiều giải pháp đồng bộ khác, từ công tác quy hoạch và phê duyệt dự án của chính quyền địa phương đến việc gỡ vướng thủ tục pháp lý.

Đáng mừng là, với sự định hướng của chính sách, nhiều doanh nghiệp bất động sản bắt đầu chuyển dịch sang nhà ở xã hội, kể cả các doanh nghiệp lớn. Vinhomes cho biết, đang hoàn thiện các thủ tục pháp lý để bổ sung dự án nhà ở xã hội tại nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Công ty TNHH Hòa Bình cũng rao bán khách sạn dát vàng Dolce by Wyndham Hanoi Golden Lake ở B7 - Giảng Võ (Ba Đình, Hà Nội), với giá hơn 6.000 tỷ đồng để chuyển đổi dòng tiền sang đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Trước đó, Sun Group, Novaland, Him Lam, Bitexco... cùng tuyên bố sẽ xây dựng hàng trăm ngàn căn nhà ở xã hội.

Hiệu quả của gói 120.000 tỷ đồng phải chờ thời gian trả lời. Theo các chuyên gia kinh tế, NHNN và Bộ Xây dựng nên có sơ kết thực hiện gói tín dụng này sau một thời gian để có sự điều chỉnh thích hợp. Nếu gói tín dụng này bị “ế” do thiếu nguồn cung nhà ở xã hội, NHNN và các ngân hàng thương mại có thể nghiên cứu, mở rộng đối tượng vay sang cả nhà ở thương mại có giá trung bình, thay vì chỉ co hẹp ở nhà ở xã hội.

“Gói tín dụng 120.000 tỷ đồng tập trung vào phân khúc nhà ở xã hội, song lượng dự án nhà ở xã hội tại TP.HCM, Hà Nội sắp triển khai rất hiếm. Nếu thời gian tới không có đột phá trong cấp phép dự án nhà ở xã hội, thì nhiều khả năng gói 120.000 tỷ đồng bị ‘ế’. Theo tôi, có thể xem xét áp dụng gói tín dụng này với cả phân khúc nhà ở trung cấp, hướng tới khách hàng bình dân”, ông Đinh Thế Hiển, chuyên gia kinh tế khuyến nghị.

Lãi suất giảm, doanh nghiệp vẫn dè dặt vay vốn

Mặt bằng lãi suất huy động đã giảm khá mạnh, song lãi suất cho vay vẫn chưa về mức tại thời điểm trước tháng 9/2022.

Đầu tuần này, lãi suất huy động tại các ngân hàng đồng loạt giảm mạnh sau khi quyết định hạ thêm 0,3-0,5% lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chính thức có hiệu lực. Theo đó, mặt bằng lãi suất huy động của các ngân hàng kỳ hạn dưới 6 tháng chỉ còn 4,9-5,5%/năm, lãi suất cao nhất kỳ hạn từ 6 tháng trở lên chỉ còn 8,8%/năm. Đây là lần thứ hai NHNN hạ lãi suất điều hành chỉ trong vòng một tháng, đón đầu và đi trước xu hướng hạ lãi suất bắt đầu diễn ra trên thế giới.

Thông tin lãi suất giảm được các ngân hàng thương mại đón nhận tích cực. Ông Nguyễn Kim Hùng, Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam đánh giá, việc NHNN liên tục giảm lãi suất điều hành, cũng như công bố đang xây dựng chính sách giãn, hoãn nợ cho doanh nghiệp khiến các doanh nghiệp rất vui mừng và kỳ vọng.

GDP quý I/2023 tăng trưởng thấp nhất so với cùng kỳ kể từ năm 2011, tín dụng tháng đầu năm chỉ tăng hơn 2%, ngân hàng thừa vốn trong khi tỷ giá ổn định… là nguyên nhân khiến NHNN đưa ra quyết định giảm lãi suất điều hành, mong muốn cầu tín dụng sẽ tăng thời gian tới.

Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế, sau 2 lần liên tiếp giảm lãi suất điều hành, NHNN đã phát đi thông điệp rõ ràng về chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng hơn. Tuy nhiên, trong bối cảnh sức hấp thụ của nền kinh tế suy yếu, lãi suất phải giảm thêm mới có thể kích cầu tín dụng tăng trở lại.

Tình cảnh tréo ngoe đang diễn ra trong khối doanh nghiệp: nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đủ điều kiện vay, song không có nhu cầu vay vốn do thiếu đơn hàng xuất khẩu và chê lãi suất cao. Nhóm doanh nghiệp còn lại (doanh nghiệp bất động sản, doanh nghiệp nhỏ và vừa…) chấp nhận lãi suất, mong muốn vay vốn, song không đủ điều kiện vay.

Ông Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM (HUBA) cho rằng, dù lãi suất điều hành đã hạ, nhưng lãi suất cho vay nhiều ngân hàng vẫn trên 10%/năm. Với lãi suất này, doanh nghiệp không có lãi. Hơn nữa, điều kiện vay vốn của ngân hàng rất khắt khe. Vì vậy, nếu không “mềm hóa” quy định về thế chấp, định giá tài sản, thì doanh nghiệp rất khó tiếp cận vốn. Ngoài ra, với nhiều doanh nghiệp, vấn đề giãn, hoãn nợ đang cấp bách hơn vấn đề tiếp cận vốn mới khi hàng loạt khoản vay cũ có nguy cơ chuyển nhóm nợ.

Việc giảm lãi suất điều hành của NHNN phù hợp với tình hình thực tế thị trường, cũng như mong muốn của cả doanh nghiệp và ngân hàng thương mại. Trước khi NHNN đưa ra quyết định giảm lãi suất điều hành, từ đầu năm đến nay, có ít nhất 24 ngân hàng giảm lãi suất.

Tổng giám đốc OCB Nguyễn Đình Tùng cho rằng, giảm lãi suất cũng là mong mỏi của hệ thống ngân hàng, bởi hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp có khởi sắc, thì hiệu quả kinh doanh của ngân hàng mới được nâng lên. Do đó, động thái giảm lãi suất điều hành của NHNN là rất hợp lý, vừa định hướng vừa tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn rẻ hơn, qua đó giảm mạnh lãi suất cho vay để hỗ trợ cho nền kinh tế.

Tuy nhiên, đối với việc hạ chuẩn cho vay và giãn, hoãn nợ, vẫn còn nhiều ý kiến băn khoăn. Trong bối cảnh nền kinh tế phục hồi chậm, các kênh dẫn vốn khác như trái phiếu doanh nghiệp, chứng khoán… gặp khó khăn, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, bên cạnh giảm lãi suất, NHNN cần chỉ đạo các ngân hàng thương mại rà soát lại toàn bộ thủ tục, điều kiện tín dụng, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp.

Tuy vậy, trong bối cảnh rủi ro tăng cao, việc hạ chuẩn tín dụng, nới lỏng điều kiện vay có thể làm gia tăng nguy cơ nợ xấu ngân hàng. Việc giãn, hoãn nợ, không chuyển nhóm nợ xấu cũng có thể giúp doanh nghiệp giảm bớt khó khăn trước mắt, song sẽ đẩy rủi ro về tương lai.

Trả lời báo chí liên quan đến việc giãn, hoãn nợ cho doanh nghiệp tuần qua, Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho hay, NHNN đang nghiên cứu chính sách giãn, hoãn nợ để tạo cơ sở pháp lý cho các ngân hàng thương mại thực hiện. Tuy vậy, việc giãn, hoãn nợ phải được nghiên cứu kỹ lưỡng cả về đối tượng lẫn mức độ, để vừa hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, vừa đảm bảo an toàn cho các ngân hàng.

“Giãn, hoãn nợ, song phải đảm bảo không làm sai lệch bản chất nợ xấu của nền kinh tế, không để giãn nợ nhằm che giấu nợ xấu và cũng phải đảm bảo thanh khoản, năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng”, Phó thống đốc Đào Minh Tú khẳng định.

Chính vì vậy, để việc giảm lãi suất phát huy hiệu quả, theo các chuyên gia, vấn đề quan trọng không kém là phải có giải pháp đồng bộ gỡ khó cho doanh nghiệp để tăng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Muốn làm được điều này, rất cần có thêm các chính sách hỗ trợ khác để cộng hưởng cùng chính sách tiền tệ, như tháo gỡ pháp lý cho thị trường bất động sản, gỡ khó cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế VAT, đẩy mạnh giải ngân đầu tư công…

Đáng mừng là, cuối tuần qua, Chính phủ đã phê duyệt Đề án Đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021 - 2030. Cũng đầu tháng 4/2023, NHNN đã ban hành hướng dẫn triển khai gói 120.000 tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội với lãi suất ưu đãi. Với những động thái này, cùng với hàng loạt giải pháp gỡ khó cho thị trường bất động sản, cơ cấu nợ trái phiếu doanh nghiệp trước đó, giới chuyên gia kỳ vọng, doanh nghiệp sẽ có thêm trợ lực, dần vượt qua giai đoạn khó khăn nhất.

Chê lãi suất gói 120.000 tỷ đồng vẫn cao, HoREA lại muốn triển khai gói 110.000 tỷ đồng

NHNN vừa đưa ra hướng dẫn triển khai gói tín dụng 120.000 tỷ đồng hỗ trợ nhà ở xã hội, do big 4 ngân hàng thực hiện từ nguồn vốn thương mại của các ngân hàng này.

Hiệp hội bất động sản TP.HCM (HoREA) cho rằng, “lãi suất cho vay trong thời gian ưu đãi” của gói tín dụng này (từ nay đến 30/06/2023 là 8,2%/năm) vẫn rất cao nếu so với lãi suất vay ưu đãi 5%/năm áp dụng cho năm 2023 đối với người mua nhà ở xã hội được quy định tại Quyết định số 2081/QĐ-NHNN ngày 12/12/2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

Với quy định lãi suất ưu đãi chỉ áp dụng 5 năm với người mua nhà và 3 năm với chủ đầu tư, sau đó sẽ áp dụng lãi suất thỏa thuận, HoREA cho rằng, thời gian như vậy là quá ngắn, không phù hợp với bản chất của chính sách tín dụng ưu đãi về nhà ở xã hội là cần được vay với lãi suất thấp và trong thời hạn dài mà Luật Nhà ở 2014 đã quy định thời hạn vay ưu đãi tối đa 25 năm.

Hiệp hội nhận thấy, nhiều khả năng sau khi hết thời gian ưu đãi thì người mua nhà ở xã hội phải vay với lãi suất thương mại bình thường thì đây sẽ càng là “gánh nặng” cho người vay là đối tượng thu nhập thấp, công nhân lao động, nên Hiệp hội đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét để xây dựng hoàn thiện cơ chế này cho hợp tình hợp lý hơn.

Do vậy, về lâu dài, để đảm bảo nguồn vốn tín dụng ưu đãi, dài hạn và huy động các nguồn lực xã hội hóa để thực hiện chính sách về nhà ở xã hội thật căn cơ, hiệu quả, hạn chế phụ thuộc vào nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, Hiệp hội đề nghị Chính phủ và Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét xây dựng hoàn thiện chính sách tín dụng về phát triển nhà ở xã hội theo hướng xác định việc đầu tư phát triển nhà ở xã hội cho người lao động có thu nhập thấp là một hạng mục đầu tư trongnguồn vốn trung, dài hạn của địa phương.

Đồng thời, sửa đổi, bổ sung quy định về các nguồn vốn cho phát triển nhà ở thông qua quy định về nguồn vốn mới và tối ưu hóa các nguồn vốn hiện hành nhằm hạn chế phụ thuộc vào nguồn vốn từ ngân sách nhà nước; theo hướng: bổ sung thêm việc huy động vốn từ quỹ đầu tư phát triển địa phương để phát triển nhà ở xã hội, giới hạn mục đích sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước để phát triển hạ tầng cho phù hợp với quy định của Luật Đầu tư công, bổ sung hình thức huy động vốn từ nước ngoài để phát triển nhà ở xã hội”.

Hiệp hội đề nghị Bộ Xây dựng tiếp tục nghiên cứu đề xuất gói tín dụng ưu đãi 110.000 tỷ đồng (bằng khoảng 30% nhu cầu nguồn vốn để thực hiện Chương trình 1 triệu căn nhà ở xã hội trong giai đoạn 2021-2030) theo cơ chế “tái cấp vốn, cấp bù lãi suất” theo kế hoạch chi ngân sách nhà nước trung hạn tùy thuộc vào khả năng cân đối ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ thuộc thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, để cho người mua, thuê mua nhà ở xã hội được vay với lãi suất ưu đãi khoảng 4,8-5%/năm trong thời hạn tối đa 25 năm để trình Chính phủ và Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét quyết định.

Trước đó, đề xuất này của Bộ Xây dựng không được ủng hộ của NHNN. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng đã phát biểu rằng, nguồn tái cấp vốn hiện tại tương đối khó khăn. Số tiền 110.000 tỷ đồng rất lớn, cung ứng tiền ra với thời gian dài hạn, có thể làm giảm tính linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ.

HoREA cho hay, trong năm 2023, Ngân hàng chính sách xã hội đang còn nguồn vốn tín dụng ưu đãi hơn 11.000 tỷ đồng cho người mua, thuê mua nhà ở xã hội vay với lãi suất ưu đãi 5%/năm (áp dụng cho năm 2023) trong thời hạn tối đa 25 năm, nhưng chưa giải ngân được do thiếu nguồn cung nhà ở xã hội trên thị trường.

Để tránh “lãng phí” và sử dụng thật hiệu quả nguồn vốn này, Hiệp hội đề nghị các địa phương khẩn trương tháo gỡ vướng mắc về quy trình thủ tục đầu tư xây dựng dự án nhà ở xã hội để sớm triển khai thực hiện, để sớm cung ứng được nhiều sản phẩm nhà ở xã hội đáp ứng nhu cầu nhà ở xã hội rất lớn của người dân.

UOB: Ngân hàng Nhà nước có thể giảm thêm lãi suất trong quý II/2023

Bộ phận Nghiên cứu Kinh tế và các Thị trường toàn cầu của Ngân hàng UOB nhận định quyết định hạ lãi suất tái cấp vốn cơ bản của NHNN không nằm ngoài dự đoán, nhưng không có nghĩa là bắt đầu chu kỳ giảm lãi suất mạnh mẽ.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã công bố giảm lãi suất tái cấp vốn 50 điểm (0,5%) xuống 5,5%, hiệu lực từ thứ hai (ngày 3/4). Đây là đợt cắt giảm lãi suất chính sách gần đây nhất nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Động thái của NHNN không gây bất ngờ do những thông báo đã đưa ra trước đó cũng như kết quả tăng trưởng GDP quý I/2023 thấp hơn dự kiến đã được công bố một ngày trước.

Lãi suất chiết khấu mà NHNN bất ngờ cắt giảm 100 điểm cơ bản xuống 3,5% (từ 4,5%) vào ngày 16/3, sẽ được giữ nguyên ở mức 3,5% và lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng sẽ không thay đổi ở mức 6%, không bị ảnh hưởng bởi thông báo chính sách mới nhất.

Trong thông báo gần đây nhất, Ngân hàng Trung ương cũng tuyên bố sẽ hạ trần lãi suất tiền gửi bằng đồng Việt Nam thêm 50 điểm cơ bản xuống từ 0,5% đến 5,5% đối với các kỳ hạn dưới 6 tháng. Trần lãi suất cho vay ngắn hạn một số lĩnh vực ưu tiên giảm từ 5% xuống 4,5%. UOB cũng lưu ý, trong thông báo ngày 16/3, NHNN đã giảm trần lãi suất cho vay ngắn hạn một số lĩnh vực từ 5,5% xuống 5%).

Theo đánh giá của UOB, quyết định hạ lãi suất tái cấp vốn cơ bản của NHNN không nằm ngoài dự đoán, do NHNN đã công bố giảm các loại lãi suất liên quan khác từ ngày 16/3. Một động lực khác cho NHNN cắt giảm lãi suất là do tốc độ tăng trưởng GDP trong quý I/2023 của Việt Nam bất ngờ giảm xuống mức 3,32% so với cùng kỳ năm trước từ 5,92% trong quý IV/2022, được công bố vào chỉ một ngày trước đó.

Hơn nữa, có những dấu hiệu cho thấy sự ổn định quay lại thị trường sau các rối loạn gần đây trong hệ thống ngân hàng của Hoa Kỳ và châu Âu (sự sụp đổ của Ngân hàng Thung lũng Silicon và việc UBS mua lại Credit Suisse) đã giảm bớt và Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ sắp kết thúc chu kỳ tăng lãi suất.

"Như chúng tôi dự đoán trong báo cáo Việt Nam: Khởi đầu thấp trong quý I/2023 (ngày 30/3/2023), sẽ có "nhiều khả năng NHNN sẽ thiên về chính sách nới lỏng hơn trong giai đoạn sắp tới", với việc cắt giảm lãi suất tái cấp vốn 100 điểm cơ bản trong quý II/2023", UOB đưa ra nhận định.

Mặc dù NHNN thiên về chính sách nới lỏng hơn, nhưng điều này không có nghĩa là sự bắt đầu một chu kỳ cắt giảm lãi suất mạnh mẽ, ít nhất là tính đến thời điểm này. NHNN có khả năng sẽ thực hiện các đợt cắt giảm lãi suất tiếp theo một cách thận trọng và cân nhắc. Hướng tập trung của NHNN rõ ràng sẽ là xu hướng tập trung quản lý lạm phát trong nước.

Lạm phát đang cho thấy dấu hiệu hạ nhiệt, khi chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam tăng 4,18% so với cùng kỳ trong quý I/2022 và thấp hơn mục tiêu của Chính phủ là 4,5%, lạm phát cơ bản vẫn chưa có dấu hiệu giảm đáng kể.

Lạm phát cơ bản (không bao gồm giá cả lương thực, năng lượng và các dịch vụ công khác) trong quý I/2023 đã tăng lên mức 5,01% từ 4,76% trong quý IV/2022 và 3,17% trong quý 3 năm 2022. Xu hướng này có thể khiến Ngân hàng Trung ương có thể có lo ngại khi lạm phát cơ bản trong tháng 3 tăng 4,88% so với cùng kỳ, là tháng thứ 6 liên tiếp lạm phát dao động trên mức 4,5%.

Bên cạnh những cân nhắc về giá tiêu dùng, bất kỳ sự cắt giảm lũy kế nào lớn hơn 100 điểm cơ bản sẽ phụ thuộc vào sự ổn định của ngành ngân hàng ở Hoa Kỳ và châu Âu, đặc biệt là mức độ ảnh hưởng kéo dài từ chiến dịch tăng lãi suất kéo dài một năm của Fed Hoa Kỳ đến nhu cầu trên toàn cầu.

Bao gồm cả việc cắt giảm 50 điểm cơ bản mới được thông báo gần đây, UOB tiếp tục cho rằng, NHNN có thể giảm tổng cộng 100 điểm cơ bản trong quý 2 năm 2023. Điều này có nghĩa là lãi suất tái cấp vốn rất có thể sẽ giảm thêm 50 điểm cơ bản trước thời điểm cuối tháng 6 để hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế trong nước.

VND nổi bật là một trong những đồng tiền ổn định nhất châu Á. Bất chấp những thay đổi đáng kể trong kỳ vọng tăng lãi suất của Fed, lo ngại suy thoái kinh tế toàn cầu cũng như tình trạng rối loạn của hệ thống ngân hàng Mỹ, đồng VND giao dịch trong biên độ hẹp 0,8% quanh mức 23,600/USD.

Bất chấp việc NHNN bất ngờ cắt giảm 100 điểm cơ bản đối với lãi suất tái chiết khấu vào ngày 16 tháng 3, sự phục hồi của xuất khẩu và sản xuất công nghiệp trong những tháng tới, kết hợp với lạm phát giảm, có thể sẽ giữ ổn định cho đồng VND.

Nhìn chung, UOB kỳ vọng cặp USD/VND sẽ cùng quỹ đạo tăng như các cặp tỷ giá ngoại hối USD/Châu Á khác lên 24.200 trong quý II/2023 trước khi giảm xuống 24.000 trong quý III/2023, 23.800 trong quý IV/2023 và 23.600 trong quý I/2024.

Trên cơ sở ý kiến thống nhất và các văn bản tham gia của 4 ngân hàng thương mại nhà nước (Agribank, Vietcombank, BIDV,VietinBank), Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chính thức đưa ra hướng dẫn cụ thể.

Theo đó, đối tượng vay vốn của chương trình là pháp nhân, cá nhân đầu tư Dự án và mua nhà ở tại các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ thuộc danh mục dự án do Bộ Xây dựng công bố theo quy định, bao gồm cả chủ đầu tư và người mua nhà tại các dự án.

Nguyên tắc cho vay như sau:

Thứ nhất, khách hàng phải đáp ứng các điều kiện được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ theo quy định của pháp luật và các văn bản hướng dẫn của Bộ Xây dựng; đáp ứng các điều kiện vay vốn theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, mỗi người mua nhà chỉ được tham gia vay vốn theo quy định tại Chương trình này 1 lần để mua 1 căn hộ tại dự án thuộc danh mục dự án do Bộ Xây dựng công bố theo quy định, mỗi dự án của Chủ đầu tư chỉ được tham gia vay vốn theo quy định tại Chương trình này 01 lần.

Thời hạn giải ngân của Chương trình đến khi doanh số giải ngân đạt 120.000 tỷ đồng, nhưng không quá ngày 31/12/2030. Thời gian áp dụng lãi suất cho vay ưu đãi với chủ đầu tư là 3 năm kể từ ngày giải ngân, nhưng không quá thời hạn cho vay tại thỏa thuận cho vay ban đầu. Đối với người mua nhà: áp dụng mức lãi suất cho vay trong thời gian ưu đãi là 5 năm kể từ ngày giải ngân, nhưng không quá thời hạn cho vay tại thỏa thuận cho vay ban đầu.

Lãi suất ưu đãi cụ thể là 8,7%/năm với chủ đầu tư và 8,2%/năm với người mua nhà (áp dụng đến hết ngày 30/6/2023) . Kể từ ngày 01/07/2023, định kỳ 06 tháng, Ngân hàng Nhà nước thông báo lãi suất cho vay trong thời gian ưu đãi cho các ngân hàng thương mại tham gia Chương trình.

Khi hết thời gian ưu đãi, ngân hàng thương mại và khách hàng tự thỏa thuận, thống nhất, đảm bảo phù hợp với quy định của pháp luật và được xác định rõ hoặc nêu rõ cách xác định tại thỏa thuận cho vay ký kết giữa ngân hàng và khách hàng.

NHNN yêu cầu trên cơ sở các nội dung tại mục 1, các ngân hàng: Agribank, BIDV, Vietcombank, VietinBank khẩn trương thực hiện chương trình từ ngày 01/04/2023 và ban hành hướng dẫn thống nhất trên toàn hệ thống về việc triển khai Chương trình.

Ngoài các ngân hàng nêu trên, các ngân hàng thương mại khác khi tham gia Chương trình thì cần thực hiện theo hướng dẫn tại Công văn này và có văn bản báo cáo Ngân hàng Nhà nước tham gia Chương trình (qua Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Vụ Chính sách tiền tệ, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng). Đồng thời, gửi văn bản đăng ký khai thác thông tin về Chương trình cho Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam.

Ngân hàng Nhà nước cho biết, ngân hàng thương mại cho khách hàng vay vốn để thực hiện Chương trình bằng nguồn vốn tự huy động của chính ngân hàng. Ngân hàng thương mại có trách nhiệm xem xét, thẩm định, quyết định cho vay đối với khách hàng theo quy định của pháp luật về cho vay và tự chịu trách nhiệm về quyết định cho vay của mình. Ngân hàng thương mại thực hiện phân loại nợ, trích lập dự phòng và xử lý rủi ro đối với các khoản cho vay thuộc Chương trình này theo quy định của pháp luật.

Các ngân hàng thương mại kịp thời báo cáo Ngân hàng Nhà nước (Vụ Tín dụng các ngành kinh tế) những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình cho vay theo Chương trình này. Định kỳ hàng tháng (trước ngày 10 của tháng kế tiếp) báo cáo Ngân hàng Nhà nước kết quả triển khai Chương trình theo Phụ lục 01; đồng thời định kỳ báo cáo Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam theo Phụ lục 02.

Ngân hàng Nhà nước yêu cầu Ngân hàng Nhà nước chi nhánh các tỉnh, thành phố chỉ đạo việc thực hiện, theo dõi tình hình và thanh tra, giám sát việc cho vay của các ngân hàng thương mại tham gia Chương trình trên địa bàn; kịp thời báo cáo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước những vướng mắc phát sinh.

Trước đó, trong Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11/03/2023 về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững, Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam "chủ trì triển khai chương trình tín dụng khoảng 120.000 tỷ đồng để chỉ đạo các ngân hàng thương mại, trong đó chủ lực là 4 ngân hàng thương mại nhà nước (Agribank, BIDV, Vietcombank, VietinBank) cho chủ đầu tư và người mua nhà của các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ vay với lãi suất trong thời gian ưu đãi thấp hơn 1,5 - 2% so với lãi suất cho vay trung dài hạn VND bình quân của các ngân hàng thương mại nhà nước (bao gồm Agribank, BIDV, Vietcombank, VietinBank) trên thị trường và các ngân hàng thương mại ngoài nhà nước có đủ điều kiện với các gói tín dụng cụ thể trong từng thời kỳ”.

Lại rộ tin nhắn lừa đảo mạo danh brand name ngân hàng: Chuyên gia lý giải vì sao khó chặn

Cuối tuần qua, hàng loạt khách hàng của MSB, Vietcombank đồng loạt nhận được tin nhắn từ chính tổng đài Vietcombank, MSB với nội dung: “Ứng dụng VCB Digibank của bạn được phát hiện kích hoạt trên thiết bị lạ. Nếu không phải bạn kích hoạt vui lòng bấm vào http://vietcombank.vn-vm.top để đổi thiết bị hoặc hủy để tránh mất tài sản” hoặc “Tài khoản của bạn đã đăng ký chương trình quảng cáo trên TikTok, mỗi tháng thu phí 2.250.000 VND. Vui lòng vào https://msb.vn-cvs.top để kiểm tra hoặc hủy”.

Do những tin nhắn trên đều được gửi đến trong cùng mục với tin nhắn thật của ngân hàng, tên website cũng gần giống với tên miền của các ngân hàng. Điều này khiến cho nhiều người dùng không nghi ngờ mà cho rằng, đây là tin nhắn do ngân hàng gửi. Không ít khách hàng đã chủ quan bấm vào đường link trên, ngay lập tức đường link này dẫn đến một trang web giả mạo giao diện đăng nhập của ứng dụng ngân hàng, yêu cầu nhập mã OTP với mục đích ăn chiếm đoạt tiền trong tài khoản của khách hàng.

Trao đổi với Báo điện tử Đầu tư - baodautu.vn, ông Vũ Ngọc Sơn, Giám đốc kỹ thuật Công ty Công nghệ an ninh mạng quốc gia Việt Nam (NCS) cho hay, phương thức phát tán tin nhắn mạo danh SMS brandname của Ngân hàng không mới, kẻ lừa đảo sẽ sử dụng các thiết bị chuyên dụng, giả trạm phát sóng BTS, đem đến khu vực đông người để phát đi số lượng tin nhắn lớn tới các thuê bao lọt vào vùng phủ sóng của thiết bị. Do tin nhắn giả mạo được xếp chung luồng với các tin nhắn thật đến từ ngân hàng nên rất khó để phân biệt và dễ bị mắc lừa.

Thủ đoạn trên đã diễn ra nhiều năm song đến nay vẫn chưa có giải pháp ngăn chặn hữu hiệu. “Các đối tượng lừa đảo thường đặt thiết bị tại các nơi tập trung đông người như ngã tư đèn xanh đèn đỏ, trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí, nhờ vậy số lượng tin nhắn phát tán đi là rất lớn, lên đến hàng chục nghìn tin nhắn mỗi ngày với chỉ 1 thiết bị. Loại thiết bị phát sóng giả mạo này có kích thước nhỏ, dễ lắp đặt di chuyển nên rất khó khăn cho việc phát hiện và xử lý”, ông Sơn cho biết.

Giải pháp để tự bảo vệ, theo các chuyên gia, vẫn là sự cẩn trọng của người tiêu dùng. Theo đó, bất kỳ khi nào nhận được tin nhắn yêu cầu truy cập 1 đường link nào đó, việc đầu tiên cần làm là bình tĩnh, kiểm tra lại đường link đó có phải giả mạo hay không. Thực tế, đường link trong các tin nhắn lừa đảo thường có nhiều khác biệt so với đường link của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, ngân hàng chính thức, nếu cẩn thận người tiêu dùng có thể dễ dàng nhận ra.

Đơn cử, trong tin nhắn lừa đảo mạo danh Vietcombank và MSB, các đường link đính kèm đều kết thúc bằng .top trong khi các ngân hàng của Việt Nam đều đăng ký tên miền đuôi .vn.

Trong sáng nay, Vietcombank đã thông báo về sự xuất hiện trở lại tình trạng lừa đảo giả mạo tin nhắn SMS thương hiệu Vietcombank tại Hà Nội và một số vùng lân cận với nội dung thông báo về việc “Ứng dụng VCB Digibank của khách hàng được phát hiện kích hoạt trên một thiết bị lạ” và yêu cầu khách hàng bấm vào đường link giả mạo đi kèm. Đường link này dẫn đến một trang web giả mạo giao diện đăng nhập của ứng dụng VCB Digibank để lấy thông tin dịch vụ của khách hàng nhằm chiếm đoạt tiền trong tài khoản. Tin nhắn giả mạo này chứa các đường link bất thường như: vietcombank.vn-cbs.xyz; vietcombank.vn-cbs.pop; vietcombank.vn-ms.top…

“Vietcombank không gửi tin nhắn SMS đi kèm các đường link đăng nhập dịch vụ VCB Digibank. Các tin nhắn có đường link đăng nhập dịch vụ đều là giả mạo”, Vietcombank khuyến cáo khách hàng.

Tương tự, MSB cũng khuyến cáo khách hàng về tình trạng lừa đảo nói trên và cho biết đã ghi nhận một số website giả mạo như sau: https://msb.vn-iy.life; https://msb.com.vn-ct.xyz; http://msb.com.vn-cz.top/; https://msb.com.vn-zy.xyz. “MSB khẳng định không bao giờ yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin đăng nhập, mật khẩu, OTP dưới hình thức như trên”, thông báo của MSB nêu rõ.

Đây không phải lần đầu tiên các ngân hàng khuyến cáo khách hàng các nội dung nêu trên, tuy nhiên thủ đoạn của đối tượng lừa đảo luôn thay đổi và ngày càng tinh vi, khiến nhiều người vẫn mắc bẫy.

Thống đốc: Hệ thống ngân hàng đang dồi dào thanh khoản

Thông tin trên được Thống đốc ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng nêu trong phát biểu tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với các địa phương diễn ra sáng nay (3/4).

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, kinh tế toàn cầu vẫn còn chịu những tác động từ đại dịch Covid-19, chiến tranh Nga - Ukraine, sự sụp đổ của một số ngân hàng Mỹ, châu Âu do rủi ro từ việc lấy vốn huy động ngắn hạn để đầu tư dài hạn, rủi ro khi FED tăng mạnh lãi suất…

“Bất ổn tài chính toàn cầu trước mắt chưa tác động lớn đến tài chính tiền tệ Việt Nam, nhưng vẫn phải theo dõi sát vì thị trường biến động sẽ tác động đến dịch chuyển vốn giữa các nền kinh tế”, Thống đốc cho hay.

Bên cạnh đó, lạm phát các nước đã qua đỉnh nhưng còn cao, chính sách tiền tệ điều chỉnh đã giảm bớt sự thận trọng nhưng vẫn đang kiểm soát lạm phát, làm ảnh hưởng đến cầu tiêu dùng và đầu tư của các nước đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.

Về kinh tế trong nước, khó khăn của nền kinh tế Việt Nam cũng là khó khăn chung của các nước, nhưng lạm phát được kiểm soát ở mức 4,18% là thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân trong vấn đề giá cả.

Ngoài ra, thị trường tài chính biến động, tình trạng một số ngân hàng trên thế giới sụp đổ nhưng hệ thống ngân hàng của Việt Nam vẫn giữ được sự ổn định. Đáng chú ý là trong quý I/2023, Tập đoàn SMBC đã có giao dịch 1,5 tỷ USD mua 15% vốn của một ngân hàng (VPBank - PV), cho thấy nhà đầu tư vẫn rất tin tưởng vào môi trường đầu tư của Việt Nam, Thống đốc nhận định.

Phân tích tăng trưởng GDP quý I chỉ đạt 3,32%, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng, cầu xuất khẩu là tác động chủ yếu khiến GDP tăng thấp. Về đầu tư, đầu tư FDI giảm, giải ngân giảm 2,2%, trong khi cùng kỳ tăng 7,8%, cho thấy cầu về đầu tư giảm. Giải ngân đầu tư công quý I đạt 10,3% so với kế hoạch; ngân sách bội thu; tiêu dùng tăng thấp; lạm phát cơ bản bình quân quý I tăng 5,01%.

Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang phải đối mặt, chịu rất nhiều áp lực, làm sao vẫn điều hành thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, nhưng vẫn phải đảm bảo ổn định hệ thống ngân hàng, thị trường tiền tệ, ngoại hối…

Về thanh khoản, trong quý I/2023, Ngân hàng Nhà nước đã điều tiết, hệ thống hiện nay dồi dào thanh khoản, quý I mua 4 tỷ USD tức là bơm tiền ra. Qua Tết, tiền gửi tại hệ thống ngân hàng khá cao.

Qua sự kiện rút tiền hàng loạt của SCB tháng 10 năm ngoái và một số ngân hàng trên thế giới sụp đổ, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, các ngân hàng tập trung hơn vào ổn định an toàn, đáp ứng thanh khoản cho người dân.

Về tín dụng đã tăng 2,06%, Thống đốc cho biết, đây là mức tăng thấp hơn so với cùng kỳ của một số năm trước, ngoại trừ năm ngoái. Hiện Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện một số giải pháp hỗ trợ tín dụng thông qua giải pháp điều tiết tiền tệ, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, nhóm nợ.

Về lãi suất, năm ngoái đã tăng cao nhưng Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện các giải pháp và mặt bằng lãi suất đang có chiều hướng giảm, cuối tuần trước đã điều chỉnh giảm lãi suất điều hành 0,5-1% trên cơ sở lạm phát âm, Fed điều chỉnh lộ trình tăng lãi suất thấp, tỷ giá ổn định.

Đề cập một số giải pháp trong thời gian tới, Thống đốc cho biết Ngân hàng Nhà nước đang phối hợp các bộ ngành, Bộ Tư pháp để sửa đổi Thông tư 16 để đảm bảo tháo gỡ khó khăn nhưng vẫn đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng, tránh rủi ro từ bài học của ngân hàng SVB (Mỹ), đánh giá để có giải pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ, nhóm nợ.

Ngân hàng Nhà nước cũng đã họp với các bộ ngành về chương trình hỗ trợ lãi suất. Các bộ ngành thống nhất không sửa Nghị định 31 và đang xem xét vấn đề chuyển nguồn.

Nêu một số kiến nghị, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng, để giải quyết khó khăn của nền kinh tế, phải thực hiện đồng bộ các giải pháp theo nguyên tắc vướng mắc ở đâu thì tháo gỡ ở đó, cân nhắc các rủi ro.

Thống đốc cho biết, thị trường bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp đang gặp khó khăn. Qua trao đổi với IMF, ngân hàng Nhà nước cho rằng, các bộ ngành có thể cân nhắc kiến nghị của tổ chức này, đó là các bộ ngành khó có thể đánh giá các Dự án bất động sản, nên cần bên thứ 3 như kiểm toán, để các dự án nào khó khăn tạm thời thì có giải pháp hỗ trợ.

IMF cũng khuyến nghị thực hiện các giải pháp cần tránh rủi ro đối với bảng cân đối tài sản của các tổ chức tín dụng, kiểm soát kỳ hạn bởi thị trường trái phiếu và bất động sản có kỳ hạn dài.

Loạt diễn biến bất ngờ làm nóng mùa đại hội đồng cổ đông ngân hàng

Hàng loạt diễn biến mới đây, như các thương vụ mua bán - sáp nhập (M&A) dần lộ diện, hoạt động bán chéo bảo hiểm - đầu tư trái phiếu bị thanh tra... báo hiệu một mùa đại hội “nóng”.

Theo tài liệu mới được công bố, tại ĐHĐCĐ năm nay, VPBank không chỉ trình cổ đông thông qua thương vụ bán vốn 1,5 tỷ USD cho nhà đầu tư chiến lược Nhật Bản - Sumitomo Mitsui Banking Corporation, mà còn để ngỏ nhiều thương vụ khác.

Cụ thể, VPBank trình cổ đông giao Hội đồng Quản trị chủ động thực hiện các giao dịch liên quan đến góp vốn, mua cổ phần, mua lại công ty con, liên kết, hợp tác hoặc tham gia các phương án cơ cấu lại tổ chức tín dụng yếu kém…

Ngoài ra, trên thị trường cũng có tin đồn rằng, VPBank đang xây dựng phương án nhận chuyển giao bắt buộc GPBank. Trước đó, năm 2022, VPBank đã lần lượt mua lại Công ty Chứng khoán ASC và Công ty Bảo hiểm OPES.

Các chuyên gia phân tích của Công ty Chứng khoán VCBS nhận định, việc VPBank tham gia nhận chuyển giao một ngân hàng yếu kém sẽ giúp ngân hàng này được cấp hạn mức tín dụng cao hơn so với mức trung bình của ngành trong năm nay.

Ngoài VPBank, mới đây, một lãnh đạo cấp cao của Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam (MSB) cũng xác nhận, tại ĐHĐCĐ thường niên sắp tới, ban lãnh đạo sẽ trình cổ đông thông qua phương án sáp nhập một ngân hàng.

“Xu hướng sáp nhập trong lĩnh vực ngân hàng là tất yếu. Chúng tôi đang cân nhắc, lựa chọn một ngân hàng phù hợp với định hướng phát triển để thực hiện việc sáp nhập, giúp MSB tăng quy mô nhanh hơn”, vị lãnh đạo này cho biết.

Trước tin đồn MSB sẽ sáp nhập PG Bank đang rộ lên trên thị trường, lãnh đạo MSB không xác nhận, song cũng không bác bỏ. Trong khi đó, Chủ tịch Hội đồng Quản trị PG Bank lại phủ nhận kế hoạch sáp nhập với một ngân hàng khác.

Được biết, ngày 7/4 tới đây, Petrolimex sẽ thực hiện đấu giá chào bán 120 triệu cổ phiếu, tương đương 40% vốn điều lệ tại PG Bank.

Ngoài 2 thương vụ kể trên, nhiều khả năng, năm nay, cổ đông Vietcombank, HDBank, MB cũng sẽ chất vấn ban lãnh đạo về các thương vụ nhận chuyển giao ngân hàng bắt buộc. Theo thông tin ban đầu được hé lộ, MB sẽ nhận chuyển giao bắt buộc OceanBank, HDBank nhận chuyển giao bắt buộc DongABank và Vietcombank nhận chuyển giao bắt buộc Ngân hàng Xây dựng (CB).

Theo Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 01/2014/NĐ-CP ngày 3/1/2014 của Chính phủ về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam đang được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra lấy ý kiến, các ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc tổ chức tín dụng yếu kém (ngoại trừ nhóm nhân hàng “Big 4”) sẽ được nới room vốn ngoại lên mức tối đa 49%.

Thông tin từ NHNN, theo kế hoạch, có 4 ngân hàng thương mại cổ phần sẽ nhận chuyển giao bắt buộc đối với 4 ngân hàng yếu kém. Đây là cơ hội để thị trường M&A ngân hàng thời gian tới thêm nhộn nhịp.

Một nội dung nữa được các cổ đông hết sức quan tâm trong mùa ĐHĐCĐ năm nay là lợi nhuận và nợ xấu của các ngân hàng trong bối cảnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản chưa phục hồi.

Năm nay, kế hoạch lợi nhuận được các ngân hàng đưa ra khá khiêm tốn. Đa phần các ngân hàng chỉ đặt kế hoạch tăng trưởng 10 - 15%, trong khi năm 2022, tăng trưởng bình quân của 28 ngân hàng lên tới gần 34%. Thậm chí, năm nay, Techcombank còn đặt mục tiêu lợi nhuận giảm 14% so với năm ngoái.

Ba tháng đầu năm, tín dụng toàn hệ thống chỉ tăng 2,06%, một số ngân hàng tăng trưởng tín dụng âm. Tình hình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro, thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản đều gặp khó khăn, hoạt động bán chéo bảo hiểm đang bị thanh - kiểm tra…, khiến nguồn thu của nhiều ngân hàng bị ảnh hưởng.

Các chuyên viên phân tích của Công ty Chứng khoán VCBS dự báo, năm nay, lợi nhuận trước thuế của toàn ngành ngân hàng sẽ giảm tốc, tốc độ tăng trưởng chỉ đạt khoảng 10%. Đồng thời, sẽ có sự phân hóa về triển vọng lợi nhuận giữa các nhóm ngân hàng.

Sự đóng băng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường bất động sản đang làm tăng rủi ro nợ xấu với hệ thống ngân hàng, bởi các doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong huy động vốn mới để đảo nợ, hoạt động xử lý nợ xấu gặp nhiều thách thức, do bất động sản là tài sản đảm bảo chính cho phần lớn các khoản vay.

Trong bối cảnh tín dụng khó khăn, nợ xấu có nguy cơ gia tăng, các ngân hàng vẫn nỗ lực đẩy mạnh nguồn thu ngoài lãi. Năm 2022, doanh thu phí bảo hiểm khai thác mới qua kênh bancassurance tăng 45% và tổng thu phí bảo hiểm tại các ngân hàng niêm yết tăng 16,4% so với cùng kỳ. Một số ngân hàng chuyển từ mô hình giới thiệu bảo hiểm sang bán hàng trực tiếp với tỷ lệ hoa hồng cao hơn. Năm nay, thị trường bancassurance có thể sẽ tiếp tục ghi nhận các thương vụ ký kết mới của HDBank và VIB.

Làm thế nào để kiểm soát rủi ro, tìm dư địa tăng trưởng mới sẽ là một trong những vấn đề mà lãnh đạo các ngân hàng phải “giải trình” với cổ đông trong mùa ĐHĐCĐ năm nay.

Đại hội cổ đông NCB: Mục tiêu cho vay tăng 21%, nâng gấp đôi vốn điều lệ

Ngày 8/4, Ngân hàng TMCP Quốc Dân (NCB - mã: NVB) tổ chức Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2023, trình cổ đông kế hoạch kinh doanh và mục tiêu tăng vốn tham vọng.

Theo báo cáo của Ban Điều hành NCB, năm 2023 là năm thứ hai ngân hàng này triển khai việc tái cấu trúc hoạt động ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cũng trình các mục tiêu kinh doanh thận trọng.

Theo đó, năm 2023, NCB đặt mục tiêu tổng tài 94.500 tỷ đồng (tăng 5,18%); Huy động khách hàng đạt 78.000 tỷ đồng (tăng 6,34%); riêng cho vay khách hàng dự kiến đạt tới 57.700 tỷ đồng (tăng 20,9%). Đặc biệt, năm nay, mục tiêu lợi nhuận trước trích lập theo Phương án cơ cấu lại được NCB đặt ra khá khiêm tốn so với năm ngoái: chỉ 16 tỷ đồng.

Năm 2022, lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trước trích lập dự phòng rủi ro của NCB đạt 309 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo cam kết của NCB với NHNN, NCB đã dùng toàn bộ lợi nhuận để trích lập các khoản cần xử lý theo phương án cơ cấu lại đã được NHNN phê duyệt, khiến nguồn lợi nhuận còn lại không đáng kể.

Kết thúc năm 2022, tổng tài sản của NCB tăng lên gần 90.000 tỷ đồng, huy động vốn đạt hơn 73.300 tỷ đồng và dư nợ cho vay đạt hơn 47.700 tỷ đồng, vượt kế hoạch đã đề ra. Các tỷ lệ an toàn hoạt động, tỷ lệ thanh khoản của NCB luôn được giám sát chặt chẽ, tuân thủ quy định NHNN.

Tính đến ngày 31/12/2022, tỷ lệ dự trữ thanh khoản duy trì ở mức 24,09%, tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn 18,10% - tốt hơn so với yêu cầu của NHNN. Kết quả này cho thấy Ngân hàng đang duy trì một “bộ đệm thanh khoản vững chắc” có khả năng chống chịu tốt trước những biến động trên thị trường. Năm 2022 cũng là năm có tốc độ phát triển khách hàng nhanh nhất trong các năm. Tính đến hết năm 2022, quy mô khách hàng đã tăng 97.022 khách hàng, tăng 13% so với 2021.

Năm 2023, ngân hàng tiếp tục kế hoạch tăng vốn điều lệ, đẩy mạnh công tác thu hồi, xử lý nợ có vấn đề nhằm đảm bảo

Đại hội cổ đông thường niên NCB năm 2023 đã thông qua phương án phát hành cổ phiếu riêng lẻ và tăng vốn điều lệ lên gấp hơn 2 lần. Cụ thể, ngân hàng muốn phát hành tối đa 620 triệu cổ phiếu riêng lẻ, tương đương quy mô 111% vốn điều lệ của NCB. Tổng giá trị phát hành theo mệnh giá là 6.200 tỷ đồng. Vốn điều lệ của NCB sau khi hoàn tất phương án tăng vốn là 11.801 tỷ đồng. Thời gian dự kiến từ nay đến năm 2025.

Theo lãnh đạo NCB, việc tăng vốn là cần thiết để ngân hàng nâng cao năng lực tài chính và các chỉ số đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng; mở rộng hoạt động kinh doanh; đầu tư thay đổi hình ảnh nhận diện thương hiệu, đầu tư công nghệ thúc đẩy ngân hàng số…

Việc phát hành riêng lẻ có thể tiến hành thành một đợt hoặc nhiều đợt tùy tình hình thị trường cũng như việc thương lượng và đàm phán với nhà đầu tư. Cổ phiếu chào bán riêng lẻ sẽ bị hạn chế 1 năm với nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp kể từ ngày hoàn thành mỗi đợt chào bán.

Đại hội cổ đông NCB cũng thông qua miễn nhiệm 2 thành viên Ban Kiểm soát là bà Trần Thị Hà Giang - Trưởng Ban Kiểm soát và bà Trần Thị Minh Huệ, đều có đơn xin từ nhiệm vì lý do cá nhân, các nhân sự này sau khi được miễn nhiệm vẫn mong muốn được tiếp tục cống hiến cho NCB. Đồng thời, thông qua bầu Ban Kiểm soát mới gồm 3 thành viên.

Đại hội cổ đông NCB cũng trình cổ đông thông qua sửa đổi quy định tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa của nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, hiện tỷ lệ room ngoại tại NCB vẫn là 30% thay vì mức 9% như đã được thông qua tại ĐHĐCD thường niên năm 2022, do chưa được UBCK chấp thuận thay đổi.

Tin bài liên quan