Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 24/2-2/3: Giá vàng và dầu bật tăng, ngược chiều quặng sắt, thép, nông sản…

Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 24/2-2/3: Giá vàng và dầu bật tăng, ngược chiều quặng sắt, thép, nông sản…

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Trong tuần giao dịch từ 24/2-2/3, trong khi nhiều mặt hàng quặng sắt, thép, lúa mì, ngô, đường, dầu cọ… giảm giá thì ở chiều ngược lại, vàng và dầu cùng bật mạnh, trong đó giá vàng tăng cao nhất 2 tháng.

Năng lượng: Giá dầu và khí tự nhiên bật mạnh

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu tăng vào thứ Sáu (1/3) và ghi nhận mức tăng hàng tuần do các nhà giao dịch chờ đợi quyết định của OPEC+ về các thỏa thuận cung cấp trong quý II/2024, đồng thời cân nhắc dữ liệu kinh tế mới của Mỹ, châu Âu, Trung Quốc.

Cụ thể, hợp đồng tương lai dầu thô Brent giao tháng 5/2024 tăng 1,64 USD (+2%) lên 83,55 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) giao tháng 4/2024 tăng 1,71 USD (+2,19%) lên 79,97 USD/thùng. Tính cả tuần, giá dầu Brent tăng khoảng 2,4% và dầu WTI tăng hơn 4,5%.

Các nguồn tin cho biết, quyết định gia hạn cắt giảm sản lượng của OPEC+ dự kiến sẽ diễn ra vào tuần đầu tiên của tháng 3/2024 và từng quốc gia dự kiến sẽ công bố quyết định của mình.

Nhà phân tích Carsten Fritsch của Commerzbank cho biết: “Việc tiếp tục cắt giảm sản xuất tự nguyện cho đến cuối năm sẽ là một tín hiệu mạnh mẽ và được coi là yếu tố hỗ trợ tích cực cho giá dầu”.

Một cuộc khảo sát của Reuters cho thấy OPEC đã bơm 26,42 triệu thùng/ngày trong tháng 2/2024, tăng 90.000 thùng/ngày so với tháng trước đó.

Dự kiến, giá bán dầu thô cho khách hàng châu Á của Ả Rập Xê-út ít thay đổi trong tháng 4/2024 so với mức tháng 3/2024 cũng giúp củng cố thị trường.

Công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes (BKR.O) cho biết, các công ty năng lượng Mỹ đã bổ sung số giàn khoan dầu và khí tự nhiên tuần thứ hai liên tiếp. Số giàn khoan dầu - một dấu hiệu sớm cho sản lượng tương lai, đã tăng 3 giàn lên 506 giàn trong tuần này, cao nhất kể từ tháng 9/2023.

Về phía cầu, một cuộc khảo sát chính thức cho thấy, hoạt động sản xuất của Trung Quốc đã giảm tháng thứ 5 liên tiếp trong tháng 2/2024.

Lạm phát khu vực đồng Euro đã giảm trong tháng 2/2024 theo Eurostat, nhưng cả con số chung và lạm phát cơ bản, loại bỏ giá thực phẩm và nhiên liệu biến động, đều không đạt kỳ vọng của các nhà phân tích.

Thông tin hỗ trợ giá, chỉ số chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) của Mỹ cho thấy lạm phát tháng 1 phù hợp với kỳ vọng của các nhà kinh tế, củng cố thị trường đặt cược vào việc cắt giảm lãi suất.

Ủy ban Giao dịch hàng hóa tương lai Hàng hóa Mỹ (CFTC) cho biết, các nhà quản lý tiền tệ đã tăng vị thế mua ròng hợp đồng tương lai và quyền chọn dầu thô Mỹ trong tuần tính đến ngày 27/2/2024.

Trên thị trường khí đốt, giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm do tồn trữ nhiên liệu tăng và nhu cầu sưởi ấm giảm, nhưng vẫn có tuần tăng mạnh nhất trong 1,5 tháng qua.

Cụ thể, giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 4/2024 trên sàn New York giảm 2,5 US cent xuống 1,835 USD/mmBTU. Tính chung cả tuần, giá tăng 14,5% - tuần tăng mạnh nhất kể từ ngày 12/1/2024.

Kim loại: Giá vàng và đồng tăng, đi ngược với quặng sắt, thép

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất 2 tháng, sau số liệu kinh tế ảm đạm, củng cố kỳ vọng Mỹ cắt giảm lãi suất vào tháng 6/2024.

Cụ thể, vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 2,1% lên 2.086,21 USD/ounce - cao nhất kể từ cuối tháng 12/2023 và có tuần tăng thứ 2 liên tiếp. Vàng kỳ hạn tháng 4/2024 trên sàn New York tăng 2% lên 2.095,7 USD/ounce.

Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm và chỉ số USD giảm sau số liệu kinh tế ảm đạm khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng tăng, sau khi USD giảm do hoạt động nhà máy tại nước tiêu thụ hàng đầu Trung Quốc giảm tháng thứ 5 liên tiếp, làm gia tăng sự không chắc chắn về triển vọng nhu cầu đối với kim loại công nghiệp.

Cụ thể, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,3% lên 8.521 USD/tấn.

Số liệu sản xuất của Mỹ suy yếu làm gia tăng triển vọng nước này cắt giảm lãi suất, gây áp lực đối với tiền tệ của Mỹ, khiến kim loại định giá bằng USD rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác.

Chỉ số quản lý sức mua (PMI) chính thức của Trung Quốc giảm xuống mức 49,1 điểm trong tháng 2/2024, từ mức 49,2 điểm trong tháng 1/2024, khi các nhà máy đóng cửa trong tháng để nghỉ lễ.

Ngược lại, giá nikel giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1,2% xuống 17.675 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 2 tháng trong phiên trước đó.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm trong phiên 1/3 và có tuần giảm thứ 2 liên tiếp trong bối cảnh số liệu nhà máy suy yếu và dấy lên hoài nghi các nhà hoạch định chính sách tại nước tiêu thụ hàng đầu Trung Quốc có công bố các chính sách táo bạo để hỗ trợ nền kinh tế hay không?

Cụ thể, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn Đại Liên giảm 1,75% xuống 871,5 CNY (121,09 USD)/tấn và cả tuần giảm 3,6%.

Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 4/2024 trên sàn Singapore giảm 1,55% xuống 113,3 USD/tấn - thấp nhất kể từ ngày 24/10/2023 và cả tuần giảm 4,7%.

Hoạt động sản xuất của Trung Quốc giảm tháng thứ 5 liên tiếp trong tháng 2/2024, gây áp lực đối với các nhà hoạch định chính sách trong việc xem xét các biện pháp kích thích tiếp theo.

Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,84%; thép cuộn cán nóng giảm 0,61%; thép cuộn giảm 0,35% và thép không gỉ giảm 1,1%.

Nông sản: Đậu tương tạm ngắt chuỗi giảm, lúa mì và ngô tiếp tục đi xuống

Trong tuần qua, giá đậu tương trên sàn Chicago tăng do hoạt động mua vào kiếm lời sau khi giá chạm mức thấp nhất 3 năm trong phiên trước đó, song xuất khẩu giảm và nguồn cung toàn cầu dồi dào gây áp lực giá.

Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 5/2024 tăng 10-1/2 US cent lên 11,51-1/4 USD/bushel. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 5/2024 giảm 18-1/2 US cent xuống 5,57-3/4 USD/bushel. Giá ngô giao cùng kỳ hạn giảm 4-3/4 US cent xuống 4,24-3/4 USD/bushel.

Nguyên liệu công nghiệp: Cà phê tăng giá, đi ngược với đường và dầu cọ, cao su biến động trái chiều

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô trên sàn ICE chạm mức thấp nhất gần 2 tháng do lo ngại dư cung kéo dài.

Cụ thể, giá đường thô kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn ICE giảm 0,6 US cent (-2,8%) xuống 21,09 US cent/lb - thấp nhất kể từ đầu tháng 1/2024 (đạt 20,96 US cent/lb). Đồng thời, giá đường trắng cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 2% xuống 602,6 USD/tấn.

Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn London tăng 48 USD (+1,6%) lên 3.143 USD/tấn và cả tuần tăng 4%. Giá cà phê arabica cùng kỳ hạn trên sàn ICE cũng giảm 0,6% xuống 1,833 USD/lb. Xuất khẩu cà phê robusta của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2024 tăng 16,2%.

Giá cao su tại Nhật Bản tăng sau 2 phiên giảm liên tiếp, được hỗ trợ bởi giá dầu tăng và đồng JPY suy yếu, song có tuần giảm đầu tiên trong 3 tuần. Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn Osaka (OSE) tăng 3,8 JPY (+1,28%) lên 300,8 JPY (2 USD)/kg và cả tuần giảm 1,22%, sau khi đạt mức cao nhất 7 năm trong tuần trước đó, trong bối cảnh chỉ số Nikkei đạt mức cao kỷ lục, nguồn cung tại nước sản xuất hàng đầu Thái Lan khan hiếm và nhu cầu từ các nhà sản xuất lốp xe sau Tết Nguyên đán tăng.

Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 15 CNY lên 13.915 CNY (1.933,36 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn Singapore giảm 1,23% xuống 160,8 US cent/kg.

Giá dầu cọ tại Malaysia giảm do hoạt động chốt lời và tâm lý thận trọng trước hội nghị ngành lớn tại Kuala Lumpur vào tuần tới, song vẫn có tuần tăng. Cụ thể, giá dầu cọ kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn Bursa Malaysia giảm 6 ringgit (-0,15%) về 3.964 ringgit (835,67 USD)/tấn, nhưng cả tuần vẫn tăng 2,88%.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

Tin bài liên quan