Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 27/5-4/6: Kim loại và nông sản vững giá, năng lượng mất đà

Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 27/5-4/6: Kim loại và nông sản vững giá, năng lượng mất đà

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 27/5-4/6, trong khi mặt hàng năng lượng mất giá ,đặc biệt là khí LNG với tuần giảm thứ 6 liên tiếp, thì các mặt hàng kim loại và nông sản duy trì đà tăng, trong đó vàng chấm dứt chuỗi 6 tuần giảm liên tục, quặng sắt và thép cùng bật mạnh.

Năng lượng: Dầu đảo chiều giảm giá, khí LNG giảm tuần thứ 6 liên tục

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu tăng trong phiên thứ Sáu (ngày 2/6) sau khi Quốc hội Mỹ thông qua thỏa thuận trần nợ giúp ngăn chặn tình trạng vỡ nợ của chính phủ tại quốc gia tiêu thụ dầu mỏ lớn nhất thế giới và dữ liệu việc làm đã thúc đẩy hy vọng về khả năng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tạm dừng tăng lãi suất.

Cụ thể, hợp đồng dầu thô Brent tăng 1,85 USD (+2,5%) lên 76,13 USD/thùng, trong khi dầu thô trung cấp Tây Texas của Mỹ (WTI) tăng 1,64 USD (+2,3%) lên mức 71,74 USD/thùng. Đây là mức đóng cửa cao nhất đối với dầu Brent kể từ ngày 29/5/2023 và dầu WTI kể từ ngày 26/5/2023.

Tuy nhiên, tính cả tuần, cả 2 hợp đồng dầu này cùng giảm khoảng 1% - là tuần giảm đầu tiên trong 3 tuần gần nhất. Trong phiên thứ Năm (1/6), dầu Brent đã tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 7/2021 và tháng 3/2022 đối với dầu WTI.

Trên thị trường khí đốt, giá khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) giao ngay tại châu Á giảm tuần thứ 6 liên tiếp xuống mức thấp nhất trong hơn 2 năm, trong khi giá LNG tại châu Âu cũng giảm do nhu cầu yếu và tồn kho cao.

Cụ thể, theo ước tính của ngành, giá LNG trung bình cho đợt giao hàng tháng 7/2023 tới Đông Bắc Á đã giảm 5,3% so với tuần trước ở mức 9 USD/mmBtu, mức thấp nhất kể từ tháng 4/2021.

Công ty tư vấn Rystad Energy cho biết trong một báo cáo mới đây rằng, nhu cầu ở hạ nguồn yếu và mức lưu trữ cao đã đẩy giá LNG tại châu Á xuống thấp hơn, đồng thời cho biết thêm có những lo ngại rằng xu hướng giảm nhu cầu hạn chế có thể sẽ còn tiếp diễn.

Tại Bắc Âu, ngày 31/5/2023, Argus công bố, giá LNG kỳ hạn giao trong tháng 7 ở mức 7,15 USD/mmBtu, giảm 0,91 USD/mmBtu so với giá khí cùng kỳ hạn tại Hà Lan.

Kim loại: Giá vàng kết thúc chuỗi 3 tuần giảm; đồng tăng giá; quặng sắt và thép cũng đi lên

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giảm vào thứ Sáu (2/6) do dữ liệu việc làm của Mỹ cao hơn dự kiến đã nâng lợi suất trái phiếu kho bạc tăng, nhưng cả tuần giá vẫn giảm do tỷ lệ thất nghiệp tăng khiến thị trường tiếp tục nhận định Fed sẽ tạm dừng tăng lãi suất.

Cụ thể, vàng giao ngay kết phiên 2/6 giảm 1,4% xuống 1.951,13 USD/ounce; vàng Mỹ kỳ hạn tháng 8/2023 tăng 1,3% lên 1.969,6 USD/ounce. Tính chung cả tuần, giá vàng tăng 0,2% và kết thúc chuỗi 3 tuần giảm liên tục.

Về một số kim loại quý khác, giá bạc giao ngay trong phiên cuối tuần qua giảm 1,2% xuống 23,62 USD/ounce; bạch kim giảm 0,7% xuống 999,15 USD/ounce; ngược lại, palladium tăng 0,8% lên 1.405,9 USD/ounce.

Dữ liệu việc làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp của Mỹ đã tăng 339.000 việc làm trong tháng 5/2023, vượt kỳ vọng là tăng 190.000 việc làm, nhưng tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên 3,7% từ mức thấp nhất trong 53 năm là 3,4% hồi tháng 4/2023.

Lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm và USD tăng giá trong phiên 2/6 cũng khiến cho vàng thỏi được định giá bằng đồng tiền này, vốn không chịu lãi suất, trở nên kém hấp dẫn hơn.

Tại châu Á, nhu cầu vàng vật chất ở Ấn Độ đã chậm lại trong tuần qua do giá trong nước phục hồi khiến người mua hoãn mua, trong khi sự suy yếu của đồng tiền Trung Quốc đã củng cố mức tăng giá vàng tại nước tiêu thụ vàng lớn nhất thế giới.

Ở nhóm kim loại công nghiệp, giá đồng vững trong phiên 2/6 dù đà tăng bị cản trở do USD mạnh lên. Thúc đẩy giá tăng là dữ liệu cho thấy hoạt động của các nhà máy Trung Quốc bất ngờ tăng lên và một thỏa thuận nhằm ngăn chặn tình trạng vỡ nợ của Mỹ.

Với việc các nhà đầu tư cũng đặt cược Fed sẽ không tăng lãi suất hơn nữa trong cuộc họp tiếp theo, nhu cầu đối với các tài sản liên quan đến tăng trưởng và rủi ro như đồng cũng tăng lên.

Cụ thể, kết thúc phiên 2/6, giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) gần như không thay đổi so với phiên thứ Năm, ở mức 8.242 USD/tấn, sau khi trước đó chạm 8.381 USD/tấn - mức cao nhất kể từ 11/5/2023.

Tính chung cả tuần, giá đồng tăng khoảng 1,3%, nhưng vẫn giảm khoảng 14% so với mức đỉnh hồi tháng 1/2023 do sự phục hồi kinh tế yếu kém của Trung Quốc và các đợt tăng lãi suất ở những nơi khác kìm hãm tăng trưởng.

Chiến lược gia Ole Hansen của Saxo Bank cho biết, tăng trưởng kinh tế và sản xuất vẫn còn yếu trên toàn cầu, nhưng các nhà đầu tư dường như đã cạn kiệt mong muốn bán đồng.

Về một số kim loại cơ bản khác, giá nhôm kỳ hạn 3 tháng trên sàn LME kết phiên 2/6 giảm 0,7% xuống 2.266 USD/tấn. Giá nhôm đã giảm 15% kể từ khi chạm mức cao nhất vào tháng 1/2023 và ở mức 2.285 USD/tấn vào thứ Sáu (2/6/) do nhu cầu yếu và tăng trưởng chậm lại trên toàn thế giới.

Tồn trữ nhôm giao ngay tại các kho được phê duyệt của Sàn LME đã giảm xuống mức thấp nhất trong gần 4 tháng. Theo đó, tổng lượng nhôm dự trữ tại các kho của LME là 579.025 tấn.

Giá niken cũng giảm 1% xuống 21.110 USD/tấn. Trong khí đó, giá kẽm tăng 1,6% lên 2.303 USD/tần; chì tăng 1,8% lên 2.034 USD/tấn và thiếc tăng 0,4% lên 25.525 USD/tấn.

Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc kết thúc phiên thứ Sáu (2/6) tăng 2,9% lên 745,5 CNY (107,85 USD)/tấn, sau khi có lúc chạm 755,5 CNY/tấn - mức cao nhất kể từ ngày 21/4/2023.

Các nhà phân tích của Westpac cho biết trong một lưu ý rằng, quặng sắt Đại Liên đã tăng gần 9% trong tuần trước nữa, một dấu hiệu cho thấy các thương nhân nội địa đang trở nên lạc quan hơn về triển vọng nhu cầu tại Trung Quốc.

Trên Sàn giao dịch Singapore, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 1,8% lên 103,95 USD/tấn - mức cao nhất kể từ ngày 19/5/2023, kéo dài mức tăng hàng tuần lên khoảng 6%.

Giá thép trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tiếp tục xu hướng tăng trong phiên cuối tuần qua, với thép cây tăng 2,5%; thép cuộn cán nóng tăng 2,7%; dây thép cuộn tăng 1,2% và thép không gỉ tăng 2,0%.

Tỷ lệ sử dụng công suất lò cao của các nhà máy thép Trung Quốc ở mức 89,66%, nhìn chung ổn định kể từ ngày 26 tháng 5 đến ngày 1 tháng 6 so với tuần trước đó, dựa trên cuộc khảo sát mới nhất của nhà cung cấp dữ liệu và tư vấn ngành Mysteel đối với 247 nhà sản xuất.

Nông sản: Giá ngô tăng vọt, lúa mì và đậu tương cũng tăng theo

Giá ngô và đậu tương kỳ hạn của Mỹ kết thúc phiên thứ Sáu (2/6) tăng, được hỗ trợ nhờ nhu cầu mua mạnh sau những phiên giá giảm xuống mức thấp nhất nhiều tháng, tình trạng khô hạn ở vành đai cây trồng Trung Tây nước Mỹ cùng tác động lan tỏa từ các thị trường chứng khoán và dầu thô.

Giá lúa mì cũng tăng bởi lo ngại về thời tiết ở Trung Quốc và căng thẳng về hành lang vận chuyển từ Ukraine.

Kết thúc phiên này, giá ngô kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Chicago tăng 16-1/2 cent lên 6,09 USD/bushel, vượt qua ngưỡng kháng cự trên biểu đồ tại mức trung bình động 50 ngày là gần 6,05 USD/bushel. Giá đậu tương cùng kỳ hạn tăng 23 cent lên 13,52-1/2 USD/bushel và lúa mì kỳ hạn tương tự tăng 8-1/4 cent lên 6,19 USD/bushel.

Tính chung cả tuần, giá ngô tăng 0,8%; đậu tương tăng 1,1% và lúa mì tăng 0,5%.

Doanh số xuất khẩu hàng tuần của ngô, đậu tương và lúa mì của Mỹ ở mức thấp cho thấy thị trường lo lắng về nhu cầu kém. Tuy nhiên, giá 3 loại ngũ cốc kỳ hạn tương lai đều tăng khi các thương nhân tập trung vào thời tiết mùa màng của Mỹ, với tình trạng khô hạn diễn ra ở một số khu vực của vùng Trung Tây nước này.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường, cà phê đều giảm, đi ngược với cao su

Giá đường thô kết thúc phiên 2/6 giảm xuống mức giá thấp nhất 1,5 tháng trong bối cảnh dòng chất tạo ngọt từ nhà sản xuất hàng đầu Brazil được cải thiện. Cụ thể, đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 kết thúc phiên này giảm 0,15 cent (-0,6%) xuống 24,73 cent/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 6 tuần là 24,57 US cent/lb và cả tuần giá giảm 2,5%. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 giảm 4USD (-0,6%) về 686,10 USD/tấn.

Nhà sản xuất đường hàng đầu thế giới - Brazil - đã xuất khẩu 2,47 triệu tấn đường trong tháng 5/2023 so với chỉ 1,57 triệu tấn một năm trước, ngay cả trong thời điểm cao điểm của mùa xuất khẩu đậu tương Brazil, một dấu hiệu cho thấy các nhà khai thác cảng đang xử lý tốt trong tình huống vụ mùa ngũ cốc và đường trong năm nay đạt sản lượng kỷ lục hoặc gần kỷ lục.

Giá cà phê arabica giao tháng 7/2023 giảm 2,75 cent (-1,5%) về 1,803 USD/lb và hiện thấp hơn 1,4% so với tuần trước nữa. Tương tự, cà phê robusta cùng kỳ hạn giảm 30 USD (-1,2%) xuống 2.575 USD/tấn.

Nhà sản xuất cà phê hàng đầu thế giới, Brazil, đã xuất khẩu 141.085 tấn cà phê xanh trong tháng 5/2023, giảm so với 142.467 tấn một năm trước. Xuất khẩu cà phê từ Honduras, nhà sản xuất cà phê arabica đã qua chế biến lớn nhất Trung Mỹ, đã tăng 79% trong tháng Năm. Dự trữ cà phê tại các kho của sàn ICE giảm xuống còn 583.518 bao, thấp hơn mức 1,06 triệu bao một năm trước đây.

Giá cao su tại Nhật Bản tăng vào thứ Sáu (2/6) do dữ liệu nhà máy lạc quan ở Trung Quốc thúc đẩy nhu cầu đối với các tài sản rủi ro trong bối cảnh tâm lý tích cực đối với chính sách tiền tệ của Mỹ và dự luật trần nợ cũng hỗ trợ.

Cụ thể, hợp đồng cao su giao tháng 11/2023 tại Sàn giao dịch Osaka (OSE) kết thúc phiên tăng 1,6 JPY (+0,8%) lên 209,8 JPY (1,6 USD)/kg. Trong tuần, hợp đồng này tăng 0,1% - phục hồi sau mức giảm của tuần trước.

Trên sàn Thượng Hải (SHFE), hợp đồng cao su giao tháng 9/2023 tăng 190 CNY lên 12.000 CNY (1.736 USD)/tấn.

Tuy nhiên, một số nhà đầu tư vẫn thận trọng do lo ngại về sự phục hồi kinh tế chậm chạp của Trung Quốc và khả năng dịch Covid-19 bùng phát trở lại, nhà môi giới cho biết, đồng thời dự đoán rằng thị trường sẽ duy trì biên độ giao dịch hẹp vào tuần tới.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

Tin bài liên quan