Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 6-13/5: Dầu giảm giá 4 tuần liên tiếp, nhiều mặt hàng khác diễn biến trái chiều

Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 6-13/5: Dầu giảm giá 4 tuần liên tiếp, nhiều mặt hàng khác diễn biến trái chiều

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 6-13/5, giá dầu tiếp tục giảm tuần thứ 4, trong khi nhiều mặt hàng khác như quặng sắt, thép, ngô, cà phê… biến động trái chiều.

Năng lượng: Giá dầu giảm tuần thứ 4 liên tục

Giá dầu thế giới giảm vào thứ Sáu (12/5) và giảm tuần thứ tư liên tiếp, trong bối cảnh thị trường cân bằng giữa lo ngại về nguồn cung với những quan ngại mới về tình hình kinh tế tại Mỹ và Trung Quốc.

Cụ thể, kết thúc phiên 12/5, giá dầu thô Brent giảm 81 US cent (-1,1%) về 74,17 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) giảm 83 cent (-1,2%) về 70,04 USD/thùng Tính chung cả tuần, cả hai loại dầu cùng giảm khoảng 1,5% so với tuần trước đó.

USD mạnh hơn khiến dầu được định giá bằng đồng bạc xanh trở nên đắt hơn đối với người mua nắm giữ các loại tiền tệ khác.

John Kilduff, đối tác tại công ty quản lý tài sản Again Capital LLC ở New York (Mỹ) cho biết, việc thiếu niềm tin vào nền kinh tế khiến nhà đầu tư tìm đến tài sản an toàn như USD, song cũng gây ra sự bi quan về nhu cầu dầu mỏ.

Thống đốc Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Michelle Bowman ngày 12/5 cho hay, Fed có thể sẽ cần tăng lãi suất hơn nữa nếu lạm phát vẫn ở mức cao và số liệu về sức ép giá cả đang giảm bớt trong tháng này không đủ thuyết phục.

Trong khi đó, số liệu giá tiêu dùng tháng 4/2023 của Trung Quốc tăng với tốc độ chậm hơn so với tháng 3/2023, không đạt kỳ vọng. Tình trạng này gây nghi ngờ về khả năng đà phục hồi tại nước này, sau các hạn chế liên quan đến Covid-19, sẽ thúc đẩy tăng trưởng nhu cầu dầu mỏ.

Công ty Dịch vụ năng lượng Baker Hughes Co (BKR.O) cho biết, số giàn khoan dầu đã giảm 2 giàn trong tuần qua xuống 586 giàn - mức thấp nhất kể từ tháng 6/2022, trong khi số giàn khoan khí đốt giảm 16 giàn xuống 141 giàn - mức thấp nhất kể từ tháng 4/2022.

Bộ trưởng Dầu mỏ Iraq Hayan Abdel-Ghani ngày 12/5/2023 bày tỏ quan điểm rằng, ông không kỳ vọng Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các quốc gia sản xuất dầu liên minh, hay còn gọi là OPEC+, sẽ quyết định cắt giảm sản lượng hơn nữa trong cuộc họp tiếp theo tại Vienna (Áo) vào ngày 4/6/2023, dù cho thị trường nhận được một số dự báo nguồn cung thâm hụt vào nửa cuối năm nay.

OPEC đã giữ nguyên dự báo nhu cầu dầu toàn cầu cho năm 2023 vào thứ Năm (11/5), kỳ vọng rủi ro kinh tế sẽ được bù đắp bởi tăng trưởng nhu cầu cao hơn của Trung Quốc.

Kim loại: Kim loại quý đồng loạt giảm giá, đi ngược với đồng, quặng sắt và thép diễn biến trái chiều

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất một tuần và ghi nhận tuần giảm bởi USD mạnh lên và trái phiếu chính phủ Mỹ tăng.

Cụ thể, vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 2.014,09 USD/ounce, sau khi giảm khoảng 0,7% trong phiên này. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 6/2023 đóng cửa thay đổi ít tại mức giá 2.019,8 USD/ounce.

USD tăng lên mức cao nhất một tháng và có tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 9/2022, khiến vàng kém hấp dẫn cho người mua bằng các ngoại tệ khác. Bên cạnh đó, lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm tăng càng làm giảm sức hấp dẫn của vàng.

Tương tự, giá bạc cũng giảm mạnh 6,85% về 24,15 USD/ounce - mức giá thấp nhất kể từ ngày 4/4/2023; trong khi bạch kim giảm nhẹ về 1.067 USD/ounce.

Ở nhóm kim loại công nghiệp, giá đồng có thời điểm xuống mức thấp nhất trong hơn 5 tháng do lo sợ nhu cầu đang chậm lại tại Trung Quốc, tồn kho tăng và USD mạnh lên.Tuy nhiên, các nhà đầu tư cho biết, các quỹ đang chốt lời do đặt cược giá giảm sau khi đã giảm gần đây và giúp đồng phục hồi trong phiên.

Cụ thể, đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại LME tăng 1,1% lên 8.257 USD/tấn. Giá kim loại công nghiệp này đã giảm 10% kể từ giữa tháng 4.

Nhu cầu giao ngay là yếu và chiều hướng trong ngắn hạn đối với các kim loại công nghiệp sẽ được xác định bởi sự kiện vĩ mô và USD.

Dự trữ đồng của sàn LME tăng 50% lên 76.625 tấn kể từ ngày 18/4, củng cố bức tranh nhu cầu yếu.

Nguyên nhân mới nhất dẫn đến việc bán tháo của các kim loại công nghiệp trong ngày 11/5 với số liệu lạm phát của Trung Quốc cho thấy, nền kinh tế này đang phải vật lộn để tăng tốc sau khi dỡ bỏ các hạn chế về Covid-19 trong tháng 12/2022.

Giá quặng sắt giảm do các nhà đầu tư lo lắng về triển vọng nhu cầu mờ nhạt tại Trung Quốc, nước tiêu thụ kim loại và sản xuất thép hàng đầu thế giới.

Cụ thể, quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên cửa giảm 2% xuống 697 CNY (100,84 USD)/tấn, trong phiên giá đã xuống 685,5 CNY/tấn, thấp nhất kể từ ngày 5/5/2023. Tuy nhiên, giá quặng sắt Đại Liên có một tuần tăng khiêm tốn sau khi lấy lại được phần đã mất.

Tại Singapore, quặng sắt giao tháng 6/2023 tăng 0,3% lên 98,85 USD/tấn sau khi giảm về mức 96,9 USD/tấn, thấp nhất kể từ ngày 5/5/2023. Quặng sắt tại Singapore đã giảm hơn 20% kể từ khi đạt mức cao nhất trong năm nay tại mức 131 USD/tấn hồi giữa tháng 3/2023, khi Trung Quốc dỡ bỏ những hạn chế về Covid-19 và hỗ trợ chính sách cho lĩnh vực địa ốc.

Nhiều nhà máy thép Trung Quốc đã thông báo giảm giá trong bối cảnh thất vọng về nhu cầu thép trong mùa xây dựng cao điểm của nước này vào mùa xuân. Theo đó, tại Thượng Hải, thép thanh giảm 1,5%; thép cuộn cán nóng giảm 1,6%; thép không gỉ giảm 0,7%; trong khi thép cuộn tăng 0,8%.

Nông sản: Giá đậu tương giảm, ngô biến động trái chiều

Đậu tương trên sàn giao dịch Chicago giảm do dự báo của Chính phủ Mỹ về vụ thu hoạch kỷ lục của nước này và nguồn cung đang tăng. Ngô CBOT đóng cửa trái chiều.

Dự trữ đậu tương thành phẩm tăng lên 335 triệu bushel vào cuối niên vụ 2023/24 so với 215 triệu bushel một năm trước.

Cụ thể, hợp đồng đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 7/2023 giảm 15-1/2 US cent xuống 13,9 USD/bushel, cả tuần giảm 3,2%.

Ngô CBOT kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 4 US cent lên 5,86-1/4 USD/bushel, nhưng ngô kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 5 US cent xuống 5,08-3/4 USD/bushel.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường tăng, đi ngược với cao su, cà phê diễn biến trái chiều

Đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 0,2 US cent (+0,8%) lên 26,22 US cent/lb, giá đã lên mức cao nhất trong 11,5 tháng tại mức 27,41 US cent/lb hồi cuối tháng 4/2023. Đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 tăng 9,8 USD (+1,4%) lên 715,10 USD/tấn.

Bộ Nông nghiệp Trung Quốc giảm một nửa dự báo lượng đường thiếu hụt của nước này trong niên vụ 2023/24 so với ước tính trước đó. Tuy nhiên, các đại lý cho biết, giá đường dường như cải thiện trong thời gian tới do nguồn cung cơ bản khan hiếm và lo ngại hiện tượng El Nino có thể ảnh hưởng tới sản lượng toàn cầu.

Cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 39 USD (+1,5%) lên 2.432 USD/tấn. Cà phê arabica cùng kỳ hạn giảm 0,15 US cent (-0,1%) về 1,8285 USD/lb.

Giá robusta tăng cao nhờ nguồn cung cạn kiệt tại Việt Nam và Indonesia, lần lượt là nước sản xuất cà phê robusta lớn nhất và lớn thứ 3 thế giới. Cũng có những lo ngại về mùa vụ liên quan tới dự báo thời tiết ở châu Á vì hiện tượng El Nino.

Tuy nhiên, các đại lý dự kiến Brazil thu hoạch vụ robusta kỷ lục trong niên vụ 2023/24. Điều này cùng với vụ arabica tốt sẽ thúc đẩy tổng lượng xuất khẩu tăng khoảng 9%, làm giảm tình trạng khan hiếm của thị trường này. Brazil là nhà sản xuất robusta lớn thứ hai thế giới và trồng arabica nhiều nhất thế giới.

Giá cao su Nhật Bản giảm phiên thứ 4 liên tục và kết thúc tuần trong sắc đỏ, do mất đà tăng bởi nguồn cung vào cuối mùa đông, trong khi số liệu kinh tế mờ nhạt làm giảm niềm tin của nhà đầu tư.

Cụ thể, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn giao dịch Osaka giảm 0,6 JPY (-0,3%) về 208,9 JPY (1,55 USD)/kg và cả tuần giảm khoảng 2%. Tại Thượng Hải, cao su giao tháng 9/2023 giảm 220 CNY về 12.015 CNY (1.738,26 USD)/tấn, kết thúc 4 ngày tăng liên tục.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

Tin bài liên quan