Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 9-16/9: Giá dầu tăng cao nhất 10 tháng, kim loại cũng tăng, nông sản và nguyên liệu công nghiệp giảm

Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 9-16/9: Giá dầu tăng cao nhất 10 tháng, kim loại cũng tăng, nông sản và nguyên liệu công nghiệp giảm

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch tuần từ 9-16/9, thị trường hàng hóa thế giới chứng kiến giá dầu áp sát mức 94 USD/thùng - cao nhất 10 tháng, trong khi hầu hết mặt hàng kim loại cũng tăng giá, còn nông sản và nguyên liệu công nghiệp biến động trái chiều.

Năng lượng: Giá dầu lên cao nhất 10 tháng, khí tự nhiên cũng tăng trở lại

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu đạt mức cao nhất 10 tháng và có tuần tăng thứ 3 liên tiếp do nguồn cung thắt chặt dẫn đầu bởi việc cắt giảm sản lượng của Ả Rập Xê-út, cùng với đó là lạc quan xung quanh nhu cầu của Trung Quốc đã nâng đỡ giá dầu thô.

Chốt phiên giao dịch ngày 15/9, dầu thô Brent tăng 23 US cent (+0,3%) lên 93,93 USD/thùng; dầu thô Tây Texas (WTI) tăng 61 US cent (+0,7%) lên 90,77 USD/thùng. Cả hai loại dầu đều đạt mức cao nhất 10 tháng và tăng phiên thứ 5 liên tiếp. Tính chung cả tuần, cả hai loại dầu đều tăng 4%.

Đồng thời, giá dầu cũng có quý tăng mạnh nhất kể từ khi cuộc xung đột Nga - Ukraine diễn ra vào cuối tháng 2/2022.

Mối lo ngại về nguồn cung tiếp tục là động lực thúc đẩy giá kể từ khi Ả Rập Xê-út và Nga tuyên bố gia hạn cắt giảm nguồn cung tổng cộng 1,3 triệu thùng/ngày đến cuối năm nay, nhà phân tích Fiona Cincotta thuộc City Index cho hay.

Cincotta cho biết thêm rằng, số liệu sản lượng công nghiệp và doanh số bán lẻ của Trung Quốc cao hơn dự kiến cũng thúc đẩy giá dầu tăng trong tuần, với điều kiện kinh tế của nước này được coi là rất quan trọng đối với nhu cầu dầu trong thời gian còn lại của năm nay.

Trên thị trường khí đốt, giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm do sản lượng giảm thấp hơn so với dự kiến và dự báo thời tiết trong tuần tới ấm hơn.

Cụ thể, giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn New York giảm 6,4 US cent (-2,4%) xuống 2,644 USD/mmBTU. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá mặt hàng này vẫn tăng 1%, sau khi giảm 6% trong tuần trước đó.

Kim loại: Đồng loạt tăng giá

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tăng trong tuần qua được hỗ trợ bởi USD suy yếu và hoạt động mua vàng là tài sản trú ẩn an toàn sau khi Liên đoàn Công nhân ô tô Hoa Kỳ khởi động cuộc đình công tại 3 nhà máy sản xuất ô tô tại Detroit, đổng thời kỳ vọng có thể tạm dừng tăng lãi suất cũng hỗ trợ giá vàng.

Cụ thể, giá vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 0,7% lên 1.924,27 USD/ounce và cả tuần tăng 0,3%; vàng kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn New York tăng 0,7% lên 1.946,2 USD/unce.

Việc USD giảm 0,2% so với giỏ các đồng tiền chủ chốt, sau số liệu của Mỹ vào đầu phiên giao dịch, khiến vàng trở nên rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác.

Ở nhóm kim loại cơ bản, giá đồng London tăng trở lại do các dấu hiệu ổn định kinh tế ở Trung Quốc làm dấy lên hy vọng về nhu cầu, mặc dù CNY yếu hơn và hàng tồn kho tăng gây áp lực lên tâm lý thị trường.

Cụ thể, trên Sàn giao dịch kim loại London (LME), giá đồng giao sau 3 tháng tăng 0,4% lên 8.275,50 USD/tấn, sau khi giảm 3% trong tuần trước.

Trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải, hợp đồng đồng giao tháng 10/2023 được giao dịch nhiều nhất giảm 0,2% xuống 68.730 CNY (tương đương 9.383,45 USD)/tấn.

Dữ liệu cho thấy giá tiêu dùng của Trung Quốc đã quay trở lại vùng tích cực trong tháng 8 do áp lực giảm phát giảm bớt.

Trong khi đó, giá CNY lung lay đè nặng lên thị trường đồng. Đồng tiền Trung Quốc chạm mức yếu nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trong bối cảnh áp lực dòng vốn chảy ra. CNY yếu hơn thường khiến việc nhập khẩu kim loại được định giá bằng USD trở nên đắt đỏ hơn.

Dự trữ đồng trên sàn Thượng Hải tăng tuần thứ ba liên tiếp lên 54.955 tấn.

Giá một số kim lại cơ bản khác trên sàn LME: Nhôm tăng 0,4% lên 2.192 USD/tấn; kẽm tăng 0,1% lên 2.446,50 USD/tấn; nikel tăng 0,3% lên 20.105 USD/tấn; ngược lại, thiếc giảm 0,7% xuống 25.400 USD/tấn và chì giảm 0,3% xuống 2.220 USD/tấn.

Trên sàn Thượng Hải, giá nhôm tăng 0,3% lên 19.120 CNY/tấn; kẽm giảm 0,2% xuống 21.385 CNY/tấn; chì giảm 0,1% xuống 17.000 CNY/tấn; nikel giảm 0,7% xuống 165.750 CNY/tấn và thiếc giảm 1,9% xuống 216.140 CNY/tấn.

Về nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn tăng phiên thứ hai do dữ liệu cho vay tốt hơn mong đợi từ nước tiêu thụ quặng sắt hàng đầu Trung Quốc, đồng nhân dân tệ mạnh hơn và dự đoán về việc bổ sung thêm hàng trước kỳ nghỉ lễ đã củng cố tâm lý nhà đầu tư.

Cụ thể, quặng sắt chuẩn giao tháng 10/2023 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 1,19% lên 118,75 USD/tấn - mức cao nhất kể từ ngày 31/3/2023.

Trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (Trung Quốc), hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2024 được giao dịch nhiều nhất tăng 1,96% lên 859 CNY(tương đương 117,76 USD)/tấn.

Giá các nguyên liệu sản xuất thép khác cũng được củng cố, với giá than cốc và than luyện cốc trên DCE tăng lần lượt 5,06% và 2,88%, đạt mức cao nhất trong 6 tháng.

Theo đó, giá thép trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải tăng mạnh trong bối cảnh giá nguyên liệu thô tăng: Thép cây tăng 1,36%; thép cuộn tăng 1,52%; thép thanh ít thay đổi và thép không gỉ giảm 1,02%.

Nông sản: Lúa mì tăng giá, đi ngược đậu tương và ngô

Giá đậu tương trên sàn Chicago giảm, sau hoạt động bán ra chốt lời sau 2 phiên tăng liên tiếp. Cụ thể, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2023 giảm 20-1/4 US cent xuống 13,4-1/4 USD/bushel và cả tuần giảm 1,7% - tuần giảm thứ 3 liên tiếp.

Giá ngô kỳ hạn tháng 12/2023 cũng giảm 4-1/4 US cent xuống 4,76-1/4 USD/bushel và cả tuần giảm 1,6% và chỉ cao hơn mức thấp nhất 2,5 năm.

Ngược lại, giá lúa mì kỳ hạn tháng 12/2023 tăng 10-1/2 US cent lên 6,04-1/4 USD/bushel và có tuần tăng 1,4% - tuần tăng mạnh nhất trong 7 tuần.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá cà phê bật mạnh; đường, cao su và dầu cọ biến động trái chiều

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô trên sàn ICE đạt mức cao nhất 12 năm, trước khi đóng cửa giảm nhẹ do thời tiết khô liên quan đến El Nino dẫn đến thiếu hụt đường toàn cầu niên vụ 2023/2024.

Cụ thể, đường thô kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn ICE giảm 0,07 US cent (-0,3%) về 26,91 US cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất 12 năm (27,59 US cent/lb). Song, tính chung cả tuần, giá đường vẫn tăng 2,3%. Đồng thời, giá đường trắng cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 9,1 USD (-1,2%) xuống 748,3 USD/tấn.

Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn ICE tăng 5,15 US cent (+3,3%) lên 1,5915 USD/lb. Tính chung cả tuần, giá cà phê tăng 7%. Đồng thời, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn London tăng 61 USD (+2,4%) lên 2.556 USD/tấn.

Giá cao su tại Nhật tăng phiên thứ 2 liên tiếp do các biện pháp kích thích tài chính tại nước tiêu thụ hàng đầu Trung Quốc, tiếp tục thúc đẩy xu hướng thị trường.

Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tháng 2/2024 trên sàn Osaka tăng 2,2 JPY (+0,9%) lên 236 JPY (1,6 USD)/kg và cả tuần tăng 0,9% - tuần tăng thứ 5 liên tiếp. Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 155 CNY lên 14.455 CNY (1.988,72 USD)/tấn. Ngược lại, giá cao su kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn Singapore giảm 0,2% xuống 142,9 US cent/kg.

Giá dầu cọ tại Malaysia tăng, được củng cố bởi giá các loại dầu thực vật khác hồi phục, song tồn trữ trong tháng 8/2023 tăng đã hạn chế giá đi lên. Tuy nhiên, tính chung cả tuần giá dầu cọ có tuần giảm thứ 2 liên tiếp.

Cụ thể, giá dầu cọ kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn Bursa Malaysia tăng 24 ringgit (+0,64%) lên 3.785 ringgit (808,42 USD)/tấn - tăng phiên thứ 3 liên tiếp. Tính chung cả tuần, giá dầu cọ giảm 1,17% sau khi giảm 5,2% trong tuần trước đó.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

Tin bài liên quan