Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 2-9/9: Giá dầu tăng cao nhất 9 tháng, kim loại hạ nhiệt

Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 2-9/9: Giá dầu tăng cao nhất 9 tháng, kim loại hạ nhiệt

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch tuần từ 2-9/9, thị trường hàng hóa thế giới chứng kiến giá dầu tiếp tục đi lên mức cao nhất 9 tháng, trong khi đa phần mặt hàng kim loại giảm giá, còn nông sản và nguyên liệu công nghiệp biến động trái chiều.

Năng lượng: Giá dầu tăng cao nhất 9 tháng, khí LNG giảm trở lại

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thế giới tăng lên mức cao nhất 9 tháng trong phiên giao dịch ngày 8/9 do lo ngại về nguồn cung dầu thắt chặt.

Cụ thể, dầu thô Brent tăng 73 cent (+0,8%) lên 90,65 USD/thùng, còn dầu thô Mỹ (WTI) tăng 64 cent (+0,7%) lên 87,51 USD/thùng. Trong tuần, cả hai loại dầu này đều tăng khoảng 2%, sau mức tăng tuần trước nữa là khoảng 5% đối với dầu Brent và khoảng 7% đối với dầu WTI.

Tuần này, 2 thành viên OPEC là Ả Rập Xê-út và Nga đã gia hạn cắt giảm nguồn cung tự nguyện tổng cộng 1,3 triệu thùng/ngày đến cuối năm nay.

Tại Mỹ, các công ty năng lượng bổ sung thêm một giàn khoan dầu, tuần tăng đầu tiên kể từ tháng 6/2023, theo Công ty Dịch vụ năng lượng Baker Hughes.

Thị trường dầu mỏ vẫn lo ngại về triển vọng kinh tế Trung Quốc phục hồi chậm sau dịch và các cam kết kích thích không như mong đợi. Dữ liệu hôm thứ Năm (7/9) cho thấy, tổng xuất nhập khẩu nước này giảm trong tháng 8/2023.

Tại Đức, Hạ viện đã thông qua dự luật có thể giảm nhu cầu nhiên liệu hóa thạch trong tương lai bằng cách loại bỏ dần các hệ thống sưởi ấm bằng dầu và khí đốt tự nhiên.

Các nhà kinh doanh dầu mỏ đang theo dõi xem liệu các ngân hàng trung ương ở Mỹ và châu Âu có tiếp tục chống lạm phát bằng cách tăng lãi suất hay không, bởi điều này có thể làm chậm tăng trưởng kinh tế và giảm nhu cầu dầu mỏ.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng tại Mỹ (LNG) tăng lên mức cao nhất trong một tuần vào thứ Sáu (8/9) do dự báo thời tiết nóng hơn bình thường ít nhất là cho đến cuối tháng 9 và do giá khí đốt toàn cầu tăng.

Cụ thể, giá LNG kỳ hạn giao tháng 10/2023 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York tăng 2,6 cent (+1%) lên 2,605 USD/mmBTU - mức cao nhất kể từ ngày 1/9. Tuy nhiên, trong tuần, giá LNG hợp đồng của Mỹ vẫn giảm khoảng 6% sau khi tăng khoảng 9% vào tuần trước nữa.

Lưu lượng khí tới 7 nhà máy xuất khẩu LNG lớn của Mỹ đã tăng lên mức trung bình 13,1 bcfd từ đầu tháng 9 đến nay, từ mức 12,3 bcfd trong tháng 8. Con số này so sánh với kỷ lục hàng tháng là 14 bcfd trong tháng 4.

Kim loại: Hầu hết giảm giá

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng nhích nhẹ khi USD bớt đà tăng, trong khi các nhà đầu tư tập trung vào dữ liệu kinh tế tuần tới để đánh giá kế hoạch tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).

Cụ thể, vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.920,49 USD/ounce. Giá vàng kỳ hạn của Mỹ ít thay đổi ở mức 1.942,7 USD/ounce.

USD đã có chuỗi tăng hàng tuần dài nhất kể từ năm 2014, nhờ dữ liệu kinh tế mạnh mẽ gần đây của Mỹ. Sức mạnh tổng thể của “đồng bạc xanh” đã đưa vàng thỏi vào đà giảm hàng tuần đầu tiên trong 3 tuần qua.

Các nhà giao dịch nhận thấy khoảng 93% khả năng Fed giữ nguyên lãi suất vào tháng 9/2023 và 43% khả năng tăng thêm một lần nữa trước năm 2024. Lãi suất cao hơn làm giảm nhu cầu đối với vàng không lợi suất.

Trên thị trường vàng giao ngay, các biện pháp hỗ trợ kinh tế của người tiêu dùng hàng đầu Trung Quốc đã thúc đẩy nhu cầu lạc quan hơn.

Trong khi đó, giá bạch kim giảm 7,63% xuống 894,8 USD/ounce - là tuần giảm mạnh nhất kể từ tháng 11/2021. Tương tự, giá bạc giảm mạnh nhất trong gần 3 tháng với mức giảm 5,65% xuống 23,17 USD/ounce.

Ở nhóm kim loại cơ bản, giá đồng giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 2 tuần do tồn kho tăng mạnh và nhập khẩu đồng yếu từ Trung Quốc.

Cụ thể, giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,6% xuống 8.321 USD/tấn, sau khi chạm mức giá thấp nhất kể từ ngày 21/8/2023 ở mức 8.265 USD/tấn.

Dữ liệu của sàn LME cho thấy, tồn kho đồng tăng 21% lên 133.850 tấn - mức cao nhất kể từ tháng 10/2022, củng cố tồn kho tăng gấp đôi kể từ giữa tháng 7/2022.

Cũng gây sức ép mạnh mẽ lên thị trường là việc USD tăng sau dữ liệu kinh tế tích cực của Mỹ, số lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 2/2023.

Sức mạnh của USD đè nặng lên giá kim loại dự kiến còn tồn tại trong phần còn lại của năm nay. Ngoài ra, việc CNY đã giảm xuống mức thấp nhất trong 16 năm so với USD cũng tác động tới thị trường.

Trong khi đó, nhập khẩu đồng từ Trung Quốc giảm 5% trong tháng 8/2023 so với một năm trước đó, dữ liệu hải quan hôm thứ Năm (7/8) cho thấy.

Trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE), giá đồng giao tháng 10/2023 giảm 0,8% xuống 68.950 CNY (9.410,79 USD)/tấn - mức thấp nhất kể từ ngày 29/8/2023.

Về một số kim loại cơ bản khác trên sàn LME, giá kẽm tăng 1% lên 2.489,50 USD/tấn, được hỗ trợ bởi nhu cầu nhập khẩu kẽm từ nước ngoài của Trung Quốc; nhôm tăng 0,1% lên 2.193,5 USD/tấn; chì tăng 0,4% lên 2.234 USD/tấn; ngược lại, thiếc giảm 0,6% về 26.105 USD/tấn và niken giảm 0,5% về 20.485 USD/tấn.

Về nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn giảm khi dữ liệu thương mại yếu kém của Trung Quốc làm lu mờ bước nhảy vọt trong tháng 8/2023 về nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thép và động thái cắt giảm lãi suất thế chấp để hồi sinh lĩnh vực bất động sản.

Trong trường hợp nhu cầu thép trong nước không hồi phục, việc tăng giá quặng sắt từ mức thấp trong tháng 5/2023 và các sản phẩm thép khác đã siết chặt lợi nhuận của các nhà máy thép.

Cụ thể, trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, giá quặng sắt giao tháng 1/2024 giảm 1,9% xuống 836,50 CNY (114,18 USD)/tấn.

Trên Sàn giao dịch Singapore, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 10/2023 giảm 1,9% xuống 114,05 USD/tấn, sau 3 phiên tăng trước đó.

Xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc kéo dài đà giảm trong tháng 8 do nhu cầu ở nước ngoài sụt giảm và chi tiêu tiêu dùng yếu ở trong nước, mặc dù mức giảm chậm hơn dự kiến. Bốn trong số các ngân hàng nhà nước lớn của Trung Quốc dự kiến sẽ giảm lãi suất đối với các khoản thế chấp hiện tại cho các khoản vay mua nhà đầu tiên.

Giá quặng sắt dự kiến có thể sẽ giảm trong tháng 8 này sau khi tăng tháng trước đó, khi Trung Quốc tăng cường nhập khẩu nguyên liệu này trong bối cảnh nhu cầu mạnh mẽ trước mùa xây dựng cao điểm, vì biên lợi nhuận thép âm có thể làm giảm nhu cầu, Công ty Tư vấn Mysteel cho biết.

Theo đó, giá thép ở Thượng Hải hầu hết đều giảm: Thép cây giảm 0,4%; thép cuộn cán nóng giảm 0,7%; thép không gỉ giảm 0,4%, trong khi thanh thép tăng 4,8%.

Nông sản: Đậu tương tăng giá, đi ngược lúa mì và ngô

Giá lúa mì kỳ hạn tại Chicago chạm xuống mức giá thấp nhất trong hơn 3 tháng, trong khi giá đậu tương kỳ hạn tăng khỏi mức thấp nhất trong 2 tuần khi các nhà giao dịch chờ đợi dữ liệu vụ mùa cập nhật của Mỹ. Hoạt động giao dịch diễn ra ảm đạm trước khi Mỹ công bố báo cáo ước tính cung cầu nông nghiệp thế giới hàng tháng vào ngày 12/9/2023.

Cụ thể, giá lúa mì kỳ hạn giao sau chốt phiên 9/9 giảm 4 cent xuống 5,95-3/4 USD/bushel, trước đó đã giảm về mức 5,90-1/2 USD/bushel - mức giá thấp nhất kể từ ngày 31/5/2023.

Giá ngô cũng giảm 2-1/2 cent xuống 4,83-3/4 USD/bushel.

Ngược lại, giá đậu tương kỳ hạn tăng 3-1/2 cent lên 13,63 USD/bushel, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 23/8/2023 ở mức 13,52-1/2 USD/bushel.

Kỳ vọng về nguồn cung lớn từ Nam Mỹ đã hạn chế mức tăng của đậu tương, khi các nhà giao dịch chờ đợi một bức tranh rõ ràng hơn về vụ thu hoạch sắp tới của Mỹ.

Trung Quốc gần đây đã mua đậu nành Brazil để giao tháng 10 và tháng 11/2023. Tuy nhiên, các nhà xuất khẩu Mỹ đã bán 121.000 tấn đậu tương cho Trung Quốc để giao hàng trong năm tiếp thị 2023/2024. Doanh số xuất khẩu đậu tương hàng tuần của Mỹ cho niên vụ 2023/2024 là 1,78 triệu tấn trong tuần kết thúc vào ngày 31/8/2023.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá cà phê và đường giảm, cao su và ca cao tăng

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường trắng kỳ hạn tháng 10/2023 giảm 6,50 USD (-0,9%) xuống 726,80 USD/tấn, sau khi chạm mức cao nhất trong 12 năm là 753,10 USD/tấn vào đầu tuần. Giá đường thô cùng kỳ hạn giảm 0,37 cent (-1,4%) về 26,31 cent/lb sau khi chạm mức cao nhất hơn 4 tháng là 27,10cent/lb, song vẫn tăng 1,9% trong tuần.

Giá đường đang bị ảnh hưởng bởi lo ngại triển vọng nguồn cung mờ nhạt ở Ấn Độ - một trong những nhà sản xuất hàng đầu thế giới.

Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 1,15 cent (-0,8%) về 1,4865 USD/lb, sau khi chạm mức thấp nhất trong 3 tuần là 1,4805 USD/lb. Hợp đồng này giảm 2,1% trong tuần. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2023 ít thay đổi ở mức 2.407 USD/tấn và giảm 3% trong tuần.

Giá cao su kỳ hạn của Nhật Bản tăng do đồng yên và nhân dân tệ yếu, mặc dù nền kinh tế Trung Quốc và Nhật Bản trì trệ đã hạn chế mức tăng giá. Cụ thể, tại Sở giao dịch Osaka, giá cao su giao tháng 2/2024 tăng 4,1 JPY (+1,8%) lên 233,9 JPY (1,59 USD)/kg và tăng 4,3% trong tuần.

Trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải, giá cao su giao tháng 1/2024 tăng 180 CNY lên 14.370 CNY (1.956,09 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 10/2023 tại SICOM giảm 0,1% về 145,3 US cent/kg.

Đồng yên yếu hơn làm cho tài sản có mệnh giá bằng đồng tiền này trở nên phải chăng hơn cho người mua ở nước ngoài.

Bất chấp một loạt các biện pháp chính sách trong những tháng gần đây để vực dậy nền kinh tế đang “vấp ngã” của Trung Quốc, các nhà hoạch định chính sách dự đoán tăng trưởng sẽ liên tục chậm hơn. Đồng nhân dân tệ của Trung Quốc đã giảm xuống mức yếu nhất kể từ tháng 12/2007, do áp lực của dòng vốn và khoảng cách chênh lệch của các nền kinh tế lớn.

Giá ca cao kỳ hạn tại London đã tăng lên mức cao mới trong 46 năm do sản lượng thấp hơn dự kiến ở Ghana khiến nguồn cung toàn cầu thắt chặt. Cụ thể, hợp đồng ca cao kỳ hạn tháng 12/2023 tăng 73 pound (+2,5%) lên 3.050 pound/tấn sau khi chạm mức cao nhất kể từ năm 1977 ở mức 3.053 pound/tấn và tăng 4% trong tuần.

Giá ca cao kỳ hạn tháng 12/2023 tại New York tăng 42 USD (+1,2%) lên 3.654 USD/tấn.

Thị trường ca cao thường xuyên thiết lập mức cao mới kể từ cuối tháng 6/2023, được thúc đẩy bởi nguồn cung thắt chặt khi các vấn đề về mùa màng ở Tây Phi góp phần vào thâm hụt toàn cầu đáng kể dự kiến trong niên vụ 2022/2023.

Sản lượng ca cao từ Ghana dự kiến sẽ thấp hơn khoảng 11% so với mục tiêu 750.000 tấn trong niên vụ 2022/2023 hiện tại.

Một cuộc thăm dò của Reuters với các thương nhân và nhà phân tích được công bố vào cuối tháng 8/2023 cho thấy, mức thâm hụt trung bình là 173.000 tấn trong niên vụ 2023/24.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

Tin bài liên quan