Thị trường tài chính 24h: Dòng tiền chảy về đâu?

Thị trường tài chính 24h: Dòng tiền chảy về đâu?

(ĐTCK) Câu trả lời có lẽ vẫn là nhóm cổ phiếu đầu cơ khi diễn biến trong phiên giao dịch hôm nay cho thấy, trong 10 mã có thanh khoản tốt nhất thị trường, phần lớn đều là những cổ phiếu đầu cơ nóng.

Chuyển động thị trường:

- TTCK Việt Nam tăng nhẹ: Trong phiên giao dịch đầu tuần, tình trạng lình xình ở nhóm cổ phiếu blue-chips vẫn chưa được cải thiện. Tuy nhiên, dòng tiền đầu cơ vẫn hoạt động rất mạnh, đặc biệt ở những cổ phiếu đầu cơ nóng như KLF, VHG…

Trong phiên giao dịch chiều, lực mua dè dặt khiến đà tăng của VN-Index yếu dần và lùi về gần mức tham chiếu. Dù có những phút nỗ lực gần cuối phiên, nhưng với việc các mã bluechip quay đầu trong đợt ATC, VN-Index đóng cửa ở mức thấp nhất ngày.

Cụ thể, kết thúc phiên giao dịch, VN-Index tăng 0,57 điểm (+0,09%), lên 600,93 điểm; HNX-Index tăng 0,13 điểm (+0,15%), lên 90,87 điểm. Tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt hơn 3.100 tỷ đồng.

Hôm nay, khối ngoại đã mua ròng 579.753 đơn vị, nhưng xét về giá trị, khối này bán ròng 10,29 tỷ đồng, giảm 95,45% so với phiên trước.

- Thị trường chứng khoán Mỹ vẫn lình xình đi ngang. Đây là phiên thứ 3 chứng khoán phố Wall có diễn biến giao dịch như vậy sau khi liên tiếp tăng, thiết lập mức điểm cao kỷ lục.

Trong phiên, thị trường cũng gần như không phản ứng sau báo cáo doanh số bán lẻ tháng 10 của Bộ Thương mại Mỹ. Cụ thể, doanh số bán lẻ tại Mỹ tăng 0,3% trong tháng 10 sau khi giảm 0,3% hồi tháng 9. Ngoài ra, chỉ số niềm tin tiêu dùng tháng 11 của Mỹ cũng tăng lên 89,4 điểm, theo số liệu của Thomson Reuters/Đại học Michigan. Những số liệu trên tiếp tục cho thấy đà phục hồi mạnh mẽ của kinh tế Mỹ, củng cố vững chắc niềm tin của giới đầu tư vào sự ổn định của thị trường.

Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần (14/11), chỉ số Dow Jones giảm 18,05 điểm (-0,10%), xuống 17.634,74 điểm. Chỉ số S&P 500 tăng 0,49 điểm (+0,02%), lên 2.039,82 điểm. Chỉ số Nasdaq tăng 8,40 điểm (+0,18%), lên 4.688,54 điểm.

- TTCK châu Á đối diện với sắc đỏ lần đầu tiên trong 7 ngày gần đây do số liệu kinh tế Nhật Bản giảm mạnh hơn dự báo.

Cụ thể, tổng sản phẩm quốc nội Nhật Bản giảm 1,6% trong quý III so với cùng kỳ năm trước, sau khi giảm sâu 7,1% trong 3 tháng trước đó. Các nhà kinh tế học tham gia khảo sát của Bloomberg cho rằng, GDP Nhật Bản tăng 2,2% trong quý vừa qua. Đây có thể sẽ là cơ sở để Thủ tướng Abe lùi lại đợt tăng thuế thứ hai. Thị trường có thể sẽ đón nhận nhiều tín hiệu kích thích kinh tế hơn từ Nhật Bản.

Kết thúc phiên giao dịch, chỉ số Nikkei giảm 517 điểm (-2,96%) xuống 16.974 điểm; chỉ số Hang Seng Index giảm 290,3 điểm (-1,21%) xuống 23.797,08 điểm; chỉ số Shanghai Composite Index trên TTCK Thượng Hải (Trung Quốc) giảm 4,82 điểm (-0,19%) xuống 2.474,01 điểm;

Hôm nay (17/11), liên kết giao dịch chứng khoán Thượng Hải - Hong Kong sẽ bắt đầu khởi động, các nhà đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận nguồn vốn lớn chưa từng có 4,2 nghìn tỷ USD tại TTCK Trung Quốc.

Giá vàng SJC giảm 20.000 đồng/lượng. Tăng mạnh trong phiên giao dịch cuối tuần trước, thị trường vàng mở cửa phiên đầu tuần biến động nhẹ. Tính đến cuối giờ chiều, giá vàng SJC được niêm yết tại mức 35,23 – 35,35 triệu đồng/lượng, giảm 20.000 đồng/lượng so với phiên cuối tuần trước.

Trong khi đó, giá kim loại quý này giao dịch trên sàn kitco cũng gần như đi ngang, giữ ở mức 1.187,2 USD/oz.

Giới phân tích vẫn đang bi quan về triển vọng giá vàng. Trong bối cảnh kinh tế Mỹ khởi sắc còn các nền kinh tế Nhật, châu Âu và Trung Quốc giảm tốc, các chuyên gia cho rằng, đồng USD sẽ còn tăng giá mạnh trong thời gian tới, từ đó gây sức ép giảm giá mạnh cho vàng.

Ngoài ra, giá dầu thô đi xuống, đồng nghĩa với lạm phát thấp trên toàn cầu, được cho là một nhân tố nữa gây bất lợi cho vàng.

Trong tuần này, giới đầu tư sẽ dành sự quan tâm cho một loạt dữ liệu thống kê kinh tế quan trọng của Mỹ. Ngoài ra, việc nhu cầu vàng vật chất có khởi sắc khi năm 2014 dần khép lại hay không sẽ là một vấn đề nữa thu hút sự chú ý.

Trên thị trường ngoại hối, tỷ giá VND/USD niêm yết tại một số ngân hàng:

Ngân hàng

Tỷ giá (đồng/USD)

Tăng giảm (đồng/USD)

Mua vào

Bán ra

Mua vào

Bán ra

Vietcombank

21.310

21.360


BIDV

21.300

21.360


Vietinbank

21.325

21.375


Argibank

21.285

21.355


Techcombank

21.250

21.350


Eximbank

21.290

21.370


MBB

21.220

21.375


ACB

21.295

21.375


Sở GD NHNN

21.200

21.400


Tỷ giá bình quân liên ngân hàng: 1USD = 21.246 đồng

- Thị trường trái phiếu thứ cấp tại Sở GDCK Hà Nội hôm nay có tổng cộng 26,57 triệu trái phiếu, trị giá 2.840 tỷ đồng được giao dịch, cụ thể như sau (xem bảng).

Mã TP

Thời hạn
còn lại

Lợi suất
(%/năm)

KLGD

GTGD

TD1416065

12 Tháng

6,3428

1.000.000

102.318.000.000

TD1416065

12 Tháng

6,3428

1.000.000

102.318.000.000

TD1315009

12 Tháng

3,8499

1.000.000

103.415.000.000

TD1416062

12 Tháng

6,5826

2.000.000

209.562.000.000

TD1315009

12 Tháng

3,8499

1.000.000

103.415.000.000

TD1316012

12 Tháng

3,9804

500.000

55.986.000.000

BVDB13269

12 Tháng

4,1002

1.000.000

112.320.000.000

TD1315004

6 Tháng

3,9001

80.000

8.458.240.000

TD1217016

2 Năm

4,4002

500.000

61.455.000.000

TD1417077

2 Năm

4,5698

500.000

53.166.500.000

TD1417071

2 Năm

6,1245

500.000

54.071.000.000

TD1417072

2 Năm

6,1243

500.000

53.380.500.000

TD1416067

2 Năm

6,2203

500.000

50.599.000.000

TD1419082

3 - 5 Năm

5,4999

59.000

6.773.436.000

TD1419084

3 - 5 Năm

5

2.000.000

225.056.000.000

TD1318025

3 - 5 Năm

4,9999

40.000

4.484.320.000

TD1419082

3 - 5 Năm

5,4999

11.000

1.262.844.000

TD1419083

3 - 5 Năm

5,3001

1.000.000

114.041.000.000

TD1419084

3 - 5 Năm

5,32

200.000

22.248.800.000

TD1419084

3 - 5 Năm

5,0999

500.000

56.062.500.000

HCMB14181

15 Năm

8,6185

1.100.000

103.948.900.000

TD1424093

10 Năm

6,6

1.000.000

110.099.000.000

TD1424093

10 Năm

6,53

1.000.000

110.621.000.000

TD1424173

10 Năm

6,64

500.000

52.950.500.000

TD1424093

10 Năm

6,5

1.000.000

110.846.000.000

TD1424093

10 Năm

6,65

500.000

54.864.000.000

TD1424173

10 Năm

6,7049

2.000.000

210.860.000.000

TD1217038

3 Năm

4,8002

500.000

57.565.500.000

TD1417080

3 Năm

4,7499

500.000

51.403.000.000

TD1417080

3 Năm

4,7001

500.000

51.467.500.000

TD1417080

3 Năm

4,6299

500.000

51.558.500.000

TD1419087

5 Năm

5,25

500.000

54.501.500.000

TD1419087

5 Năm

5,5001

80.000

8.636.400.000

TD1419089

5 Năm

5,45

500.000

52.416.000.000

TD1419089

5 Năm

5,1501

500.000

53.052.500.000

TD1419087

5 Năm

5,3999

500.000

54.186.500.000

TD1419090

5 Năm

5,4999

500.000

49.062.000.000

TD1419089

5 Năm

5,45

500.000

52.416.000.000

TD1419090

5 Năm

5,4999

500.000

49.062.000.000

Tin bài liên quan