Cụ thể, thời gian để thực hiện thủ tục phá sản của một DN ở Việt Nam là 5 năm, trong khi ở khu vực chỉ 2,7 năm; chi phí để thực hiện phá sản tại Việt Nam chiếm 15% tổng tài sản. Đặc biệt, tỷ lệ thu hồi (mô tả theo cách thức là người đòi nợ có thể thu hồi được bao nhiêu cent trên 1 USD họ bỏ ra từ công ty không có khả năng trả nợ) chỉ được 18 cent trên 1 USD. Trong số 178 nền kinh tế được IFC tiến hành đánh giá, mức độ dễ dàng về thực hiện thủ tục phá sản tại Việt
Đánh giá của IFC cũng phù hợp với những con số mà báo chí thu nhận được từ khi có khung pháp lý về thủ tục phá sản (năm 1993), toàn ngành tòa án thụ lý được khoảng 200 đơn yêu cầu phá sản so với hàng trăm ngàn DN mới được thành lập, hơn nữa trong số hồ sơ xin phá sản trên cũng chỉ có vài chục vụ thực hiện thành công.
Rắc rối thứ nhất, có thể kể đến là chuyện thời gian mở thủ tục thụ lý. Luật quy định, thời hạn để tòa án ra quyết định mở thủ tục là 30 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của DN. Thế nhưng, hồ sơ phải đi qua các bộ phận thụ lý theo luật định rất phức tạp, thời gian để tòa án triệu tập làm việc với DN yêu cầu phá sản và những cá nhân, tổ chức liên quan, nghiên cứu các báo cáo tình hình hoạt động của DN, những biện pháp khắc phục nhưng không thoát khỏi sự phá sản là quá ít ỏi.
Theo Luật, DN xin phá sản phải lập hội nghị chủ nợ để trình phương án khắc phục và hội nghị này phải ra nghị quyết để làm căn cứ giúp thẩm phán ra quyết định thanh lý tài sản. "Trường hợp việc kiểm kê tài sản của DN, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản kết thúc trước ngày lập xong danh sách chủ nợ thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày lập xong danh sách chủ nợ, thẩm phán phải triệu tập hội nghị chủ nợ; nếu việc kiểm kê tài sản của DN, hợp tác xã kết thúc sau ngày lập xong danh sách chủ nợ thì thời hạn này tính từ ngày kiểm kê xong tài sản của DN, hợp tác xã - Luật Phá sản 2004". Tuy nhiên, trên thực tế, khi đã muốn phá sản, DN cũng chẳng thiết hợp tác với thẩm phán lập hội nghị chủ nợ khiến nhiều thẩm phán ở thế tiến thoái lưỡng nan. Cũng theo Luật Phá sản 2004, tổ quản lý và thanh lý tài sản cùng với thẩm phán phải có kết luận là DN đã hết tài sản cũng như quyền sở hữu tài sản đó trước khi ra quyết định phá sản, song trên sổ sách tài sản bằng hiện vật vẫn tồn tại như hàng hóa, vật tư, máy móc, thiết bị... nhưng không còn giá trị sử dụng và cũng không có giá trị thương mại khiến cho việc ra quyết định hết sức khó khăn. Đó là chưa kể đến việc DN có trụ sở ở địa phương này nhưng chi nhánh, tài sản lại nằm ở địa phương khác, tổ thanh lý tài sản chỉ có 3 người, thử hỏi họ có cách nào để quản lý, đảm bảo tài sản của DN trong quá trình xử lý hồ sơ không bị thất thoát, hư hại.
Một khó khăn nữa là quy định về phá sản của DN trong Luật quá rộng, thành ra lại khó xác định. Đơn cử như quy định không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản. Với những hợp đồng lắt léo, vòng vèo cộng với thời gian thực hiện hợp đồng khá dài, cũng như vô vàn lý do bất khả kháng của DN thì chưa hẳn DN không có khả năng thanh toán được nợ là lâm vào tình trạng phá sản.
Cũng chính vì ít thực hiện được, nên bên cạnh những hình thức như giao, bán, khoán, cho thuê, cổ phần hóa, phá sản cũng là một trong những phương thức thực hiện đổi mới, sắp xếp lại DNNN mà tuyệt nhiên chẳng thấy cơ quan nào đề cập tại các hội nghị liên quan đến vấn đề này. Có luật sư lên tiếng, với Luật Phá sản hiện hành, nhiều DN phá sản sẽ không thể phá sản. “Chết” mà không được “chôn”, khiến cho DN tồn tại một cách hình thức, khó nhọc, đời sống, việc làm của người lao động bấp bênh với đồng lương eo hẹp hoặc tình trạng nợ lương kéo dài, ngoài ra DN lay lắt cũng kéo theo nhiều hệ lụy không đáng có khác.