NIM cải thiện, nhờ đâu?
Kết quả kinh doanh quý II/2025 của Techcombank cho thấy khả năng tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ (10,6%) nhờ tận dụng lợi thế về hệ sinh thái toàn diện trong chuỗi giá trị ngành bất động sản. Theo đó, NIM quý vừa qua đã cải thiện lên mức 3,8% từ mức 3,7% trong quý đầu năm nhờ lợi suất tài sản tăng nhẹ.
Trong những tháng cuối năm, NIM của Techcombank dự kiến dao động dưới 4% (3,7-3,8%) do cạnh tranh gay gắt và định hướng của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Để bù đắp áp lực của NIM lên thu nhập lãi thuần, dự kiến Techcombank sẽ tập trung vào tăng trưởng thu nhập ngoài lãi tận dụng thế mạnh của dịch vụ ngân hàng đầu tư và mở rộng các dịch vụ bảo hiểm.
Tính đến 30/6/2025, VPBank ghi nhận tăng trưởng tín dụng đạt 21% so với đầu năm - cao gấp đôi so với trung bình ngành nhờ cho vay phân khúc khách hàng doanh nghiệp tăng 20% và khách hàng cá nhân tăng 13,5%; riêng cho vay ký quỹ tăng 86%.
Trong đó, VPBank đẩy mạnh cho vay lĩnh vực bất động sản, thương mại, công nghiệp sản xuất và dịch vụ lưu trú. Tuy nhiên, NIM 6 tháng đầu năm giảm nhẹ, đạt 5,52% do chi phí vốn tăng. Được biết, huy động vốn của VPBank tăng trưởng 24% trong 2 quý đầu năm.
Tương tự Techcombank và các ngân hàng khác, vấn đề của VPBank là Ngân hàng Nhà nước có thể yêu cầu giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ nền kinh tế, điều này có thể gây áp lực lên NIM. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh gay gắt về lãi suất những tháng cuối năm giữa các ngân hàng cũng có thể khiến biên lợi nhuận thu hẹp.
Kết quả kinh doanh của ACB cho biết, tín dụng tại cuối quý II/2025 tăng 9,2% so với đầu năm, thấp hơn đáng kể so với mức 12,8% của cùng kỳ năm trước. NIM trong quý II/2025 đạt 3%, giảm mạnh 90 điểm cơ bản so với cùng kỳ và đi ngang so với quý trước đó. Lãi suất cho vay trung bình nhích nhẹ 7 điểm cơ bản so với quý trước đó, nhưng vẫn giảm hơn 55 điểm so với cùng kỳ.
Ngoài ra, chi phí vốn tăng 20 điểm cơ bản so với quý đầu năm cũng đóng góp vào nguyên nhân khiến NIM chưa thể tăng trở lại.
Thu nhập lãi thuần (NII) trong quý II/2025 tiếp tục giảm 6% so với cùng kỳ và tăng so với quý đầu năm khi đạt 5,1%. Như vậy, NII lũy kế 6 tháng đầu năm nay đạt 3%, giảm mạnh so với mức 5,1% của cùng kỳ năm ngoái.
Còn tại LPBank, NIM trong quý II/2025 đạt 3%, tăng 36 điểm cơ bản so với quý trước đó, nhưng giảm 49 điểm cơ bản so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2025, NIM đạt 2,8% - giảm 73 điểm cơ bản so với cùng kỳ.
Ông Lê Hoài Ân - CFA, Founder IFSS, chuyên gia đào tạo và tư vấn hoạt động ngân hàng, Công ty cổ phần Giải pháp tài chính tích hợp chia sẻ: “Tăng trưởng tín dụng có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến NIM tùy thuộc vào cách quản lý và điều kiện thị trường. Tăng trưởng tín dụng nhanh có thể làm tăng NIM nếu ngân hàng duy trì được tỷ lệ cho vay trên huy động cao và kiểm soát tốt rủi ro. Tuy nhiên, nếu tín dụng tăng quá nhanh mà không kiểm soát rủi ro thì nợ xấu có thể tăng và làm giảm NIM”.
Giám sát thực chất chất lượng tín dụng
Số liệu của Ngân hàng Nhà nước cho biết, tính đến ngày 30/6/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt hơn 17,2 triệu tỷ đồng, tăng 9,9% so với cuối năm 2024 và tăng 19,32% so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý, tính đến ngày 7/7/2025, dư nợ tín dụng đạt 16,9 triệu tỷ đồng, tăng 8,53% so với đầu năm.
Tăng trưởng tín dụng nhanh có thể làm tăng NIM nếu ngân hàng duy trì được tỷ lệ cho vay trên huy động cao và kiểm soát tốt rủi ro. Tuy nhiên, nếu tín dụng tăng quá nhanh mà không kiểm soát rủi ro thì nợ xấu có thể tăng và làm giảm NIM.
Ông Nguyễn Hoài Linh - Trưởng phòng Nghiên cứu, Công ty Quản lý quỹ Vietcombank (VCBF) nhận định, với tốc độ tăng trưởng tín dụng “đổ dồn” vào những tuần cuối cùng của quý II/2025 cho thấy bản chất của tăng trưởng tín dụng vẫn mang tính kỹ thuật nhiều hơn. Điều này phản ánh một thực tế là cầu tín dụng vẫn còn yếu, nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn tín dụng của các doanh nghiệp hiện tại vẫn ở mức thấp.
Ông Linh cho biết, hiện nay, chúng ta đang đối mặt với các rủi ro liên quan đến thuế quan và xu hướng bảo hộ thương mại ngày càng gia tăng trên toàn cầu.
Trong bối cảnh đó, đầu tư sẽ đóng vai trò là trụ cột quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là để đạt được mức tăng trưởng 9-10% trong những năm tới, thậm chí là tăng trưởng 2 chữ số như mục tiêu Chính phủ đã đề ra. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh đầu tư, với quy mô vốn đầu tư đạt khoảng 40% GDP, thay vì 30% như hiện nay.
“Theo tính toán của chúng tôi, để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 9% trở lên, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đến năm 2030 sẽ cần đạt gần 9 triệu tỷ đồng. Trong đó, nhu cầu về nguồn vốn trung - dài hạn là rất lớn. Tuy nhiên, trên thực tế , nhu cầu vốn đó vẫn đang phụ thuộc nhiều vào hệ thống ngân hàng, điều này đặt ra một rủi ro đáng kể đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam”, ông Linh nói.
Còn theo TS. Nguyễn Trí Hiếu - chuyên gia kinh tế, hiện nay, nợ xấu nội bảng của hệ thống ngân hàng đã tiệm cận mức 4%, trong khi tỷ lệ dư nợ xấu (bao gồm cả nợ xấu bán cho VAMC, nợ xấu tiềm ẩn và nợ ngoại bảng) còn cao hơn nhiều. Nếu tính gộp tất cả, nợ xấu thực chất đang tạo ra áp lực lớn đối với an toàn hệ thống.
Bởi vậy, cần tập trung vào các giải pháp nâng cao năng lực thẩm định tín dụng và quản trị rủi ro của hệ thống ngân hàng. Hay nói cách khác, các ngân hàng cần tăng cường đánh giá tín dụng một cách thực chất, đặc biệt kiểm soát chặt chẽ dòng vốn chảy vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán và tài chính tiêu dùng. Khi thẩm định khoản vay, cần chú trọng vào dòng tiền trả nợ từ hoạt động sản xuất - kinh doanh thực tế, thay vì chỉ dựa vào tài sản bảo đảm.
“Cần tăng cường giám sát chất lượng tín dụng một cách thực chất. Các ngân hàng nên sử dụng các mô hình đánh giá nội bộ theo bộ chỉ tiêu CAMELS, đồng thời kết hợp đánh giá từ bên thứ ba, chẳng hạn thông qua các tổ chức xếp hạng tín nhiệm, để có cái nhìn khách quan hơn về năng lực tài chính của khách hàng. Hơn thế nữa, phải kiểm soát chặt mục đích sử dụng vốn vay, xử lý nghiêm các trường hợp sử dụng vốn sai mục đích và hạn chế dòng tiền chảy vào đầu cơ tài sản”, ông Hiếu nhấn mạnh.
Xung quanh vấn đề tăng trưởng tín dụng, TS. Vũ Đình Ánh - chuyên gia kinh tế nêu quan điểm, thực tiễn tín dụng cho vay của hệ thống ngân hàng cho thấy có sự phân hóa rõ rệt giữa các nhóm ngân hàng.
Trong khi nhóm “Big4” (bao gồm Vietcombank, BIDV, VietinBank và Agribank) vẫn duy trì vị thế dẫn đầu, thì nhóm ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân chỉ chiếm 44% tổng vốn huy động tiền gửi nhưng lại cáng đáng tới 53% tổng vốn cho vay, với sự tách nhóm rõ rệt giữa khoảng 15 ngân hàng có tốc độ tăng tín dụng cho vay cao nhất với khoảng 5 ngân hàng gần như “chết lâm sàng”.
“Thời gian tới, cơ quan quản lý hệ thống ngân hàng cần sử dụng room tín dụng một cách linh hoạt và hiệu quả hơn. Đặc biệt, room tín dụng không chỉ là giới hạn trần như hiện nay, mà còn phải là giới hạn sàn cho vay mà ngân hàng phải thực hiện và nếu không đạt mức sàn cho vay thì cần cảnh báo khả năng bắt buộc cơ cấu lại, kể cả bắt buộc sáp nhập”, ông Ánh nói.
Trong góc nhìn tổng quan, ông Phan Đức Tú - Chủ tịch Hội đồng quản trị BIDV cho rằng, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan cần tiếp tục chỉ đạo phát triển đồng bộ và cân bằng hơn thị trường tài chính. Phát triển thị trường vốn, tăng khả năng cung ứng vốn trung - dài hạn cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tập trung cung ứng vốn ngắn hạn và thực hiện các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế, góp phần ổn định, an toàn cho hệ thống các tổ chức tín dụng.