Th.s Phan Hoài Hiệp
Q. Trưởng phòng Quản lý đầu tư DATC

Th.s Phan Hoài Hiệp Q. Trưởng phòng Quản lý đầu tư DATC

Cơ chế, chính sách xử lý nợ: Những bất cập cần sửa đổi

(ĐTCK) Để giải quyết tốt nợ xấu của nền kinh tế, Chính phủ cần xem xét nâng quy mô hoạt động DATC, đồng thời, ban hành các cơ chế tạo các quyền hạn và công cụ cho phép DATC chủ động thực hiện tốt các chức năng của mình.

> Tái cấu trúc DNNN: Đột phá thông qua xử lý nợ xấu

Để giải quyết thực trạng trên, việc Chính phủ đứng ra mua lại các khoản nợ xấu của các DN và ngân hàng thông qua một định chế tài chính được chỉ định là một bước đi hợp lý. Trên thực tế, Chính phủ cũng đã khuyến khích các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng như DN bán lại các khoản nợ xấu cho Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC). Giao dịch này về mặt bản chất, chính là việc Nhà nước mua lại các khoản nợ xấu.

Hiện nay, các cơ chế, chính sách trong hoạt động xử lý nợ đã được ban hành đầy đủ, quy định chi tiết cách thức xử lý nợ của các chủ nợ là DN và TCTD.

Thứ nhất, đối với chủ nợ là các DN, nói chung, đều đang thực hiện Thông tư số 228/2009/TT-BTC ngày 7/12/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ trích lập và sử dụng các khoản dự phòng để xử lý các khoản nợ xấu của DN, trong đó, DN dự kiến các tổn thất có thể xảy ra đối với nợ phải thu để trích lập dự phòng theo tuổi nợ quá hạn hoặc tình trạng của khách nợ. Các khoản dự phòng này được trích trước vào chi phí hoạt động kinh doanh năm báo cáo của DN. Đối với các khoản nợ không có khả năng thu hồi thì DN phải xử lý tổn thất từ các nguồn dự phòng và nếu còn thiếu thì hạch toán vào chi phí. Các khoản nợ phải thu sau khi đã có quyết định xử lý, DN vẫn phải theo dõi riêng trên sổ kế toán và được phản ánh ở ngoài bảng cân đối kế toán trong thời hạn tối thiểu là 10 năm, tối đa là 15 năm kể từ ngày thực hiện xử lý và tiếp tục có các biện pháp để thu hồi nợ. Các khoản nợ phải thu này chủ yếu từ các khách nợ tổ chức là khách hàng của DN, đang kinh doanh thua lỗ, mất khả năng thanh toán nợ.

Thứ hai, đối với chủ nợ là các TCTD: cũng giống như các DN, TCTD đang thực hiện Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN và Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện đánh giá, phân loại và xử lý các khoản nợ xấu, đồng thời, trích lập dự phòng và xử lý rủi ro tín dụng đối với khoản nợ thông qua sử dụng dự phòng và phát mãi tài sản đảm bảo để thu hồi nợ. Trường hợp số tiền dự phòng không đủ để xử lý toàn bộ rủi ro tín dụng của các khoản nợ phải xử lý, TCTD hạch toán trực tiếp phần chênh lệch thiếu của số tiền dự phòng vào chi phí hoạt động. Sau khi đã sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, TCTD phải chuyển các khoản nợ đã được xử lý rủi ro tín dụng từ hạch toán nội bảng ra hạch toán ngoại bảng để tiếp tục theo dõi và có các biện pháp để thu hồi nợ triệt để. Sau 5 năm kể từ ngày sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, TCTD được xuất toán các khoản nợ đã được xử lý rủi ro tín dụng ra khỏi ngoại bảng. Riêng đối với các NHTM nhà nước, việc xuất toán chỉ được phép thực hiện khi có đầy đủ hồ sơ, tài liệu chứng minh đã sử dụng mọi biện pháp thu hồi nợ nhưng không thu được nợ và phải được Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.

Cơ chế, chính sách xử lý nợ: Những bất cập cần sửa đổi ảnh 1

Một số tổ chức tín dụng như Habubank đang có khoản nợ xấu rất lớn.

 

Các quy định hiện hành về xử lý nợ xấu của các chủ nợ nêu trên cho thấy, nếu tuân thủ một cách chặt chẽ, phản ánh đúng mức độ thực sự của nợ xấu thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động và kết quả kinh doanh của DN, TCTD. Nếu thực hiện xử lý nợ thông qua bán nợ, xử lý tài sản đảm bảo nợ thì cũng chỉ thu hồi được một phần vốn, thậm chí làm phát sinh lỗ, mất vốn, làm giảm các hệ số an toàn vốn của DN, TCTD, nhất là các khoản nợ lớn.

Đối với khoản nợ xấu toàn hệ thống tín dụng ước tính vào khoảng 90.000 tỷ đồng, nếu được xử lý theo hướng trích lập dự phòng 100% giá trị khoản nợ xấu thì sẽ làm giảm kết quả kinh doanh (giảm lãi hoặc tăng lỗ) với giá trị tương đương 90.000 tỷ đồng. Nếu xử lý thu hồi nợ bình quân theo tỷ lệ khoảng 30% giá trị khoản nợ thì TCTD chắc chắn sẽ phải ghi nhận khoản lỗ hoặc mất vốn tương đương 63.000 tỷ đồng (riêng trường hợp Habubank nếu xử lý đầy đủ nợ xấu sẽ làm mất hầu hết vốn chủ trên 4.000 tỷ đồng). Trong trường hợp các TCTD phản ánh đầy đủ, chính xác số nợ xấu thì nợ xấu có khả năng lớn hơn nhiều số đã công bố (Hãng xếp hạng tín dụng Fitch Ratings nhận định, mức độ nợ xấu thực sự của Việt Nam có thể vượt 4 lần so với con số công bố) và để xử lý số nợ xấu theo quy định sẽ vượt quá khả năng tài chính của các TCTD.

Điều này sẽ làm giảm hình ảnh và uy tín của các chủ nợ, làm gia tăng tình trạng mất thanh khoản và làm suy yếu DN và TCTD. Do đó, không loại trừ trường hợp các DN, TCTD thực hiện nhiều cách để phản ánh không đầy đủ thực trạng nợ xấu của mình, dẫn đến các bên chủ nợ và khách nợ đều lâm vào bế tắc, tất cả các bên đều bị thiệt hại lớn do không được xử lý nợ một cách triệt để và cuối cùng sẽ dẫn đến các chủ nợ là DN, TCTD không thu hồi được vốn, khách nợ là các DN bị phá sản, người lao động mất việc làm. Số nợ xấu tiếp tục gia tăng làm ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế.

Mặt khác, hiện Ngân hàng Nhà nước chưa có chính sách tăng cường bán nợ xấu của các TCTD. Các NHTM nhà nước khi thực hiện cổ phần hóa không bàn giao nợ xấu loại trừ ra khỏi giá trị doanh nghiệp cho DATC theo quy định tại Nghị định 109/2007/NĐ-CP, Nghị định 59/2011/NĐ-CP… cũng khiến các thương vụ mua bán nợ chậm trễ, kéo dài, làm giảm hiệu quả của hoạt động này.

Trong quá trình tìm hiểu thông tin để bán nợ, các ngân hàng thường đưa ra giá bán nợ khá cao, không phù hợp với tính chất khoản nợ đem bán (DN thua lỗ lớn, tài sản đảm bảo cho khoản nợ không có tính thanh khoản, lĩnh vực kinh doanh khó khăn...). Mặt khác, cơ chế hướng dẫn bán nợ của ngân hàng  cũng chưa đồng bộ, đặc biệt là với Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB). Trong khi việc mua bán nợ với các NHTM (nhà nước và cổ phần) đã được thực hiện trong nhiều năm, nhưng riêng với đặc thù của VDB, việc bán nợ phải được Bộ Tài chính thông qua và phê duyệt. Trong nhiều trường hợp, để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tái cấu trúc DN, DATC đã phải chấp nhận mua nợ từ VDB với giá 100% giá trị nợ gốc, song quá trình phê duyệt bán nợ thường kéo dài, gây ảnh hưởng đến hiệu quả của phương án tái cấu trúc DN.

Có thể nói, quy mô nợ xấu của nền kinh tế hiện nay rất lớn và có xu hướng gia tăng do ảnh hưởng của tình hình kinh tế trong nước và quốc tế, nhất là nợ xấu của các DN có quy mô lớn, trong đó có DNNN. Trên thị trường xử lý nợ xấu hiện nay, mới chỉ có DATC trực thuộc Bộ Tài chính, nhưng quy mô về vốn của DATC rất nhỏ, các cơ chế chính sách cho hoạt động mua bán nợ còn chưa hoàn thiện, nên quy mô xử lý so với số nợ xấu của nền kinh tế của DATC vẫn còn khiêm tốn, số lượng DN được xử lý nợ chiếm số lượng nhỏ so với số lượng DN cần tái cơ cấu.

Để giải quyết tốt nợ xấu của nền kinh tế, Chính phủ cần xem xét nâng quy mô hoạt động DATC, đồng thời, ban hành các cơ chế tạo các quyền hạn và công cụ cho phép DATC chủ động thực hiện tốt các chức năng của mình theo hướng được tham gia sâu rộng vào xử lý nợ xấu của các TCTD, tái cơ cấu các DN lớn gắn với xử lý nợ; mở rộng và linh hoạt các phương thức thanh toán các khoản nợ xấu của DATC bằng tiền mặt hoặc tiền mặt kết hợp trái phiếu DATC (DATC-Notes). Ngoài ra, cần nghiên cứu thực hiện xã hội hóa hoạt động mua bán nợ theo hướng thí điểm thành lập CTCP xử lý nợ, trong đó có sự tham gia góp vốn của DATC.

DATC-Notes được căn cứ trên giá trị ghi sổ còn lại của nợ xấu sau khi đã thanh toán một phần bằng tiền mặt, các chủ nợ sẽ nhận được bằng đúng với giá trị khoản nợ xấu của mình, lúc này các khoản nợ xấu của TCTD, DN sẽ được xử lý một cách triệt để. Để thực hiện tốt giải pháp này, Nhà nước cần tạo cơ chế về DATC-Notes như là một dạng chứng khoán nợ và có quy định bắt buộc các TCTD xử lý nợ xấu thông qua DATC, đồng thời cho phép DATC được quyền định kỳ định giá lại và thực hiện chia sẻ lợi ích/ lỗ khi xử lý các khoản nợ xấu này cho các TCTD. Các TCTD sẽ được thanh toán DATC Notes theo giai đoạn thu hồi nợ của DATC. 

Tình trạng nợ xấu của các DN đang tăng mạnh, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của nền kinh tế. Theo Ngân hàng Nhà nước,  tính đến cuối tháng 9/2011, dư nợ cho vay DNNN vào khoảng 416.000 tỷ đồng, tương đương 17% tổng dư nợ, trong đó dư nợ cho vay 12 tập đoàn kinh tế nhà nước khoảng 219.000 tỷ đồng. Số nợ xấu của khối DNNN dù chưa có thống kê đầy đủ, song trên thực tế chiếm số lượng không nhỏ do nhiều nguyên nhân, từ tình trạng đầu tư dàn trải của các đơn vị này lẫn tác động tiêu cực từ khủng hoảng kinh tế…

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu