USD đã mất giá hơn 7% trong 6 tháng đầu năm nay, mức giảm mạnh nhất so với cùng kỳ từ năm 2006 tới nay, song tỷ giá USD/VND vẫn tăng. Ông lý giải thế nào về diễn biến này?
Tỷ giá USD/VND tăng mạnh từ đầu năm đến nay, từ mức 25.484 lên 26.225, xuất phát từ một số nguyên nhân.
Thứ nhất, do kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào xuất khẩu, với tổng giá trị xuất nhập khẩu tương đương 164% GDP trong năm 2024. Nhập khẩu phải mạnh để có nguyên liệu đầu vào cho chế biến, xuất khẩu và đồng USD được dùng để thanh toán nên nhu cầu USD của Việt Nam rất cao.
Thứ hai, tỷ giá luôn chịu ảnh hưởng bởi các cân đối vĩ mô khác, như lạm phát và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và các yếu tố vĩ mô toàn cầu, bao gồm chính sách tiền tệ của Mỹ hoặc các quốc gia lớn khác trên thế giới. Hiện USD mất giá so với những đồng tiền khác do các chính sách cũng như tình hình kinh tế của Mỹ trong 6 tháng đầu năm không khả quan như dự báo. USD Index hiện đang ở mức 98,13% điểm, giảm mạnh so với mức 108,32 điểm 6 tháng trước đây. Trong khi đó, tỷ giá USD/VND tăng 3,8% trong cùng thời gian. Điều này có nghĩa là trong khi giá trị của USD giảm trên rổ tiền tệ thế giới thì đồng tiền Việt Nam lại giảm sâu so với USD.
Thứ ba, liên quan đến câu chuyện ngoại thương. Mặc dù nhập khẩu và xuất khẩu đều tăng trưởng tốt nhưng dự trữ ngoại hối bù đắp ba tháng nhập khẩu lại mỏng. Trong 7 tháng đầu năm 2025, bình quân ba tháng nhập khẩu của Việt Nam lên tới 108 tỷ USD thì dự trữ ngoại hối khoảng 80 tỷ USD, mức thấp so với chuẩn mực quốc tế là phải đủ bù đắp tối thiểu 3 tháng nhập khẩu. Sự thiếu hụt ngoại tệ cũng là nguyên nhân đẩy tỷ giá lên cao trong năm nay.
![]() |
Dự trữ ngoại hối của Việt Nam đang mỏng hơn |
Trong trường hợp Fed hạ lãi suất trong những tháng cuối năm 2025 thì sẽ thế nào?
Dự báo trên chưa bao gồm khả năng Fed giảm lãi suất trong thời gian tới.
Theo dữ liệu của Bộ Lao động Mỹ công bố gần đây, số người lao động nhận trợ cấp thất nghiệp đã tăng vọt lên 1,97 triệu người vào cuối tháng 7/2025, so với mức 1,85 triệu người vào đầu tháng 1/2025. Tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 7 cũng nhích nhẹ lên 4,2%. Điều này hỗ trợ cho khả năng Fed hạ lãi suất vào tháng 9 năm nay nhằm kích thích kinh tế. Ngoài ra, ông Donald Trump đang tìm cách sa thải Chủ tịch Fed, vì ông Jerome Powell đang cưỡng lại việc giảm lãi suất khi mà những tác động của chính sách thuế quan mới của ông Trump lên lạm phát chưa rõ nét. Nếu ông Powell bị sa thải, người kế nhiệm có khả năng lập tức giảm lãi suất qua đêm.
Tôi cho rằng, khả năng Fed giảm lãi suất là rất cao, chiếm khoảng 70%. Nếu lãi suất giảm, giá trị USD sẽ giảm, điều này giúp sự mất giá của VND so với USD sẽ giảm đi. Hay nói cách khác, USD mất giá cũng là một điểm có lợi cho VND, nghĩa là đồng Việt Nam có thể được hỗ trợ, áp lực tăng của tỷ giá có thể sẽ giảm đi trong thời gian tới.
Đây là viễn cảnh tích cực trong bối cảnh Ngân hàng Nhà nước đã và đang điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát. Thông qua các công cụ điều hành, cơ quan quản lý cũng tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay, nhằm hỗ trợ tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ doanh nghiệp, qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong bối cảnh lạm phát trong nước vẫn thấp hơn nhiều so với mục tiêu mà Quốc hội đề ra cho năm nay, Ngân hàng Nhà nước có khả năng sẽ tiếp tục hạ lãi suất điều hành để hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa cho bức tranh kinh tế vĩ mô nhằm đạt mức mục tiêu tăng trưởng 8,3 - 8,5% GDP trong năm 2025. Tuy nhiên, việc hạ lãi suất cần cân nhắc để chênh lệch lãi suất giữa USD và VND ở mức độ hợp lý, tránh gây sức ép lên tỷ giá.
Theo ông, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước nên có phương án nào để ứng phó với áp lực của tỷ giá?
Ngân hàng Nhà nước luôn có một số công cụ điều hành chính sách tỷ giá. Thứ nhất là cung tiền. Khi cung tiền dồi dào sẽ đẩy tỷ giá lên. Để giảm cung tiền, Ngân hàng Nhà nước sẽ phát hành tín phiếu, rút một lượng tiền từ lưu thông, giảm áp lực lên tỷ giá. Thứ hai, công cụ lãi suất. Khi Ngân hàng Nhà nước thấy đồng tiền mất giá do lạm phát, nhà điều hành có thể đẩy lãi suất lên nhằm giảm hoạt động cho vay và kiểm soát lạm phát. Tất nhiên, tại thời điểm hiện nay, Ngân hàng Nhà nước không muốn đẩy lãi suất lên mà còn muốn giảm lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế. Nhưng nếu tỷ giá biến động mạnh, khả năng Ngân hàng Nhà nước sẽ dừng lại việc giảm lãi suất và có thể trở lại chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất. Thứ ba, nhà điều hành cũng có những biện pháp hành chính như kiểm soát câu chuyện ngoại hối trên chợ đen.
Bên cạnh việc Ngân hàng Nhà nước có các công cụ của chính sách tiền tệ cũng như những biện pháp hành chính để điều chỉnh tỷ giá, tôi cho rằng, chúng ta phải có một nguồn ngoại tệ mạnh. Để có nguồn ngoại tệ mạnh, sẽ đến từ ba hướng như xuất khẩu hay Chính phủ có thể vay mượn trên các thị trường tài chính cũng như là các nguồn tài trợ từ ODA và kiều hối.
Cuối cùng là công cụ dự trữ bắt buộc. Ngân hàng Nhà nước có thể tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và buộc các ngân hàng phải ký gửi một lượng tiền lớn hơn tại Ngân hàng Nhà nước, nhưng công cụ này đã không được sử dụng từ nhiều năm nay, vì tỷ lệ dự trữ bắt buộc hiện nay đối với tiền gửi bằng VND là 3% đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, 1% đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đã rất thấp so với chuẩn mực quốc tế.
Còn với các doanh nghiệp, theo ông, giải pháp để ứng phó với rủi ro biến động tỷ giá là gì?
Tôi cho rằng, doanh nghiệp cần đưa ra ba kịch bản: Kịch bản tệ nhất là tỷ giá có thể tăng lên đến 6%; kịch bản bình thường là tỷ giá có thể chỉ tăng ở mức 3% và kịch bản tốt nhất là tỷ giá tăng dưới 3%. Theo đó, phương án kinh doanh sẽ được lập dựa trên 3 kịch bản này.
Thông thường, tỷ giá USD/VND tăng sẽ có lợi cho nhà xuất khẩu và bất lợi cho nhà nhập khẩu. Rủi ro liên quan đến ngoại tệ có hai loại: rủi ro về khả năng mua hay bán ngoại tệ trên thị trường với số lượng mua hay bán khi có nhu cầu và khả năng tỷ giá tăng hay giảm tại thời điểm có nhu cầu mua hay bán. Nhiều nhà xuất nhập khẩu chấp nhận hai loại rủi ro này và đợi đến khi có nhu cầu mua hay bán mới chạy ra ngoài thị trường, thậm chí thị trường chợ đen, để mua hay bán.
Để tránh rủi ro ngoại tệ, các doanh nghiệp nên mua hợp đồng giao trong tương lai (forward contract) với ngân hàng, là một thỏa thuận chuẩn hóa để mua hoặc bán một lượng ngoại tệ cụ thể với một mức tỷ giá đã định trước tại một thời điểm ký hợp đồng và số lượng ngoại tệ được giao trong tương lai. Hay nói cụ thể, đây là một cam kết không thể hủy ngang với ngân hàng để mua hoặc bán một lượng ngoại tệ với một mức giá đã đã được thỏa thuận trước và được giao tại một thời điểm trong tương lai. Việc này giúp doanh nghiệp nhập khẩu cố định tỷ giá hối đoái khi cần mua một lượng ngoại tệ trong vòng 3 tháng, 6 tháng hay 12 tháng, bất kể biến động tỷ giá tại thời điểm phải mua hay bán ngoại tệ, từ đó ổn định chi phí và doanh thu.
Thêm một vấn đề nữa, bên cạnh chính sách tiền tệ Mỹ bất định và câu chuyện biến động thuế quan, các doanh nghiệp Việt Nam nên tìm kiếm những thị trường xuất khẩu có thể thay thế phần nào thị trường Mỹ. Việc tập trung vào thị trường Mỹ tại thời điểm này có rất nhiều rủi ro, cần phân tán rủi ro bằng việc tìm những thị trường mới thay thế cho thị trường Mỹ.