Mỹ: Làn sóng vỡ nợ tiếp tục dâng vì lãi suất cao và bất ổn kinh tế

0:00 / 0:00
0:00
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dự kiến tiếp tục tăng lãi suất để ngăn chặn lạm phát, điều này có thể dẫn tới tỷ lệ công ty vỡ nợ của nước này sẽ tăng trong những tháng tới.
Silicon Valley Bank sụp đổ do bị mất niềm tin đột ngột, dẫn đến khách hàng rút tiền ồ ạt. Ảnh: AFP

Silicon Valley Bank sụp đổ do bị mất niềm tin đột ngột, dẫn đến khách hàng rút tiền ồ ạt. Ảnh: AFP

Tỷ lệ doanh nghiệp vỡ nợ tại Mỹ trong tháng 5 đã tăng lên, một dấu hiệu cho thấy các công ty Mỹ đang vật lộn với lãi suất cao hơn khiến việc tái cấp vốn trở nên đắt đỏ hơn cũng như triển vọng kinh tế không chắc chắn.

Kể từ đầu năm đến nay, đã có 41 vụ doanh nghiệp vỡ nợ ở Mỹ và 1 vụ ở Canada, nhiều nhất ở bất kỳ khu vực nào trên toàn cầu và cao hơn gấp đôi so với cùng kỳ năm 2022, theo Công ty dịch vụ đầu tư của Moody’s.

Tại phiên điều trần trước Ủy ban Dịch vụ tài chính của Hạ viện Mỹ vừa qua, một tuần sau khi Fed quyết định tạm ngừng tăng lãi suất, ông Powell khẳng định động thái đó có thể chỉ là "quãng nghỉ" ngắn ngủi chứ không phải là dấu hiệu cho thấy Fed đã hoàn tất lộ trình tăng lãi suất.

Chủ tịch Fed Jerome Powell cho biết dự kiến sẽ có thêm các đợt tăng lãi suất trong năm nay, kể cả tốc độ tăng chậm hơn, cho đến khi đạt được nhiều tiến triển hơn trong cuộc chiến chống lạm phát.

Quan chức Fed cho rằng, lãi suất cần tăng tổng cộng 0,5 điểm phần trăm cho đến cuối năm 2023, nghĩa là sẽ có thêm hai đợt tăng lãi suất nếu mỗi đợt tăng 0,25 điểm phần trăm. Lãi suất cho vay cơ bản của Fed hiện cố định trong ngưỡng 5 - 5,25%, cao hơn nhiều so với mục tiêu 2% của Fed.

Theo nhận định của các nhà quản trị ngân hàng và giới phân tích, lãi suất tăng cao là thủ phạm lớn nhất dẫn đến tình trạng khó khăn của doanh nghiệp như hiện nay.

Các công ty cần thanh khoản nhiều hơn hoặc những công ty đã gánh khoản nợ khổng lồ cần tái cấp vốn đang phải đối mặt với chi phí nợ mới tăng cao.

Các quyết định lựa chọn đau đớn được đưa ra, hoặc là công ty hoán đổi khoản nợ của mình sang một hình thức nợ khác hoặc mua lại khoản nợ. Hoặc, trong những trường hợp nghiêm trọng, việc tái cấu trúc có thể diễn ra trong hoặc ngoài tòa án.

"Vốn giờ đắt đỏ hơn nhiều", ông Mohsin Meghji, đối tác sáng lập Công ty tư vấn và tái cơ cấu M3 Partners, nhận xét. "Hãy nhìn vào chi phí nợ. Bạn có thể vay nợ một cách hợp lý với mức trung bình từ 4% đến 6% tại bất kỳ thời điểm nào trong 15 năm qua. Nhưng bây giờ chi phí vay đã tăng từ 9% lên 13%", ông Meghji lý giải.

Ông Meghji cũng cho biết công ty của ông đã đặc biệt bận rộn với việc tư vấn cho doanh nghiệp ở nhiều lĩnh vực khác nhau, kể từ quý IV/2022. Theo chuyên gia này, các công ty gặp khó khăn nhất gần đây đã hứng chịu tác động, trong khi các công ty ổn định hơn về tài chính được cho là sẽ gặp vấn đề về tái cấp vốn do lãi suất cao.

Từ đầu năm đến ngày 22/6, Mỹ đã ghi nhận có 324 hồ sơ doanh nghiệp phá sản, gần bằng con số 374 của năm 2022, theo S&P Global Market Intelligence. Còn tính đến tháng 4/2023, đã có hơn 230 hồ sơ phá sản được nộp lên, mức cao nhất trong cùng kỳ kể từ năm 2010.

Envision Healthcare, nhà cung cấp dịch vụ y tế khẩn cấp, trở thành vụ doanh nghiệp vỡ nợ lớn nhất trong tháng 5. Doanh nghiệp này mắc nợ hơn 7 tỷ USD khi nộp đơn xin phá sản, theo Moody's.

Còn theo S&P Global Market Intelligence, Công ty cung cấp thiết bị báo động và an ninh gia đình Monitronics International, ngân hàng Silicon Valley Bank, chuỗi bán lẻ Bed Bath & Beyond, và chủ sở hữu mạng thể thao khu vực Diamond Sports cũng nằm trong số những công ty có hồ sơ phá sản lớn nhất từ đầu năm đến nay.

Trong nhiều trường hợp, các vụ vỡ nợ trên kéo dài hàng tháng, thậm chí hàng quý, ông Tero Jänne, đồng trưởng bộ phận chuyển đổi vốn và tư vấn nợ tại Ngân hàng đầu tư Solomon Partners, chia sẻ.

Ông Jänne cho biết thêm: "Tỷ lệ vỡ nợ là một chỉ báo muộn về tình trạng khó khăn". Nhà phân tích cho biết thêm, rất nhiều lần những vụ vỡ nợ đó không xảy ra cho đến khi có một số sáng kiến nhằm giải quyết bảng cân đối kế toán.

Moody’s ước tính tỷ lệ vỡ nợ toàn cầu sẽ tăng lên 4,6% vào cuối năm nay, cao hơn mức trung bình dài hạn là 4,1%. Tỷ lệ đó được dự đoán sẽ tăng lên 5% vào tháng 4/2024 và sau đó sẽ bắt đầu giảm dần.

Ông Mark Hootnick, đồng trưởng bộ phận chuyển đổi vốn và tư vấn nợ tại Ngân hàng đầu tư Solomon Partners, cho rằng việc đặt cược rằng sẽ có nhiều vụ vỡ nợ hơn là có cơ sở. Cho đến bây giờ, "chúng ta đang ở trong một môi trường tín dụng cực kỳ lỏng lẻo, nơi mà, thẳng thắn mà nói, các công ty không nên khai thác thị trường nợ đã có thể làm như vậy mà không bị hạn chế", ông Hootnick nhận xét.

Đây có thể là lý do tại sao vỡ nợ đã xảy ra ở nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Cũng có một số lý do cụ thể trong từng ngành.

Bà Sharon Ou, Phó chủ tịch Moody's cho biết: "Không phải một lĩnh vực cụ thể nào cũng có nhiều vụ vỡ nợ". "Thay vào đó, có khá nhiều vụ vỡ nợ trong các ngành khác nhau. Nó phụ thuộc vào đòn bẩy và tính thanh khoản".

Chẳng hạn, ngoài gánh nặng nợ nần chồng chất, Envision còn bị phá sản do các vấn đề chăm sóc sức khỏe bắt nguồn từ đại dịch Covid-19. Cũng trong thời dịch, Bed Bath & Beyond bị ảnh hưởng bởi nắm giữ lượng lớn các cửa hàng truyền thống trong khi nhiều khách hàng chọn mua sắm trực tuyến.

Tương tự, mạng lưới Diamond Sports cũng đâm đơn phá sản do người tiêu dùng có xu hướng tìm đến các gói truyền hình cáp nhiều hơn trong thời dịch.

"Tất cả chúng ta đều biết những rủi ro mà các công ty đang phải đối mặt hiện nay, chẳng hạn như tăng trưởng kinh tế suy yếu, lãi suất cao và lạm phát cao", bà Sharon Ou nhấn mạnh. "Các lĩnh vực mang tính chu kỳ sẽ bị ảnh hưởng, chẳng hạn như hàng tiêu dùng lâu bền, nếu mọi người cắt giảm chi tiêu", nữ chuyên gia lưu ý.

Tin bài liên quan