Mỹ vỡ nợ sẽ có tác động như thế nào đối với nền kinh tế toàn cầu?

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Nếu cuộc khủng hoảng nợ đang khuấy động Washington cuối cùng sẽ khiến nước Mỹ rơi vào suy thoái, thì nền kinh tế Mỹ khó có thể đi xuống một mình.
Mỹ vỡ nợ sẽ có tác động như thế nào đối với nền kinh tế toàn cầu?

Hậu quả của việc vỡ nợ lần đầu tiên đối với khoản nợ liên bang sẽ nhanh chóng vang dội khắp thế giới. Đơn đặt hàng cho các nhà máy Trung Quốc bán thiết bị điện tử cho Mỹ có thể cạn kiệt. Các nhà đầu tư Thụy Sĩ sở hữu trái phiếu kho bạc Mỹ sẽ bị lỗ. Các công ty của Sri Lanka không còn có thể triển khai đồng đô la như một giải pháp thay thế cho đồng tiền nước họ.

Mark Zandi, nhà kinh tế trưởng tại Moody's Analytics cho biết: “Không một ngóc ngách nào của nền kinh tế toàn cầu sẽ được miễn trừ nếu chính phủ Mỹ vỡ nợ và cuộc khủng hoảng không được giải quyết nhanh chóng”. Ngoài ra, ngay cả khi giới hạn nợ bị vi phạm không quá một tuần, nền kinh tế Mỹ sẽ suy yếu rất nhiều và nhanh đến mức có thể xóa sạch khoảng 1,5 triệu việc làm.

Và nếu tình trạng vỡ nợ của chính phủ Mỹ kéo dài lâu hơn nữa thì hậu quả sẽ còn khủng khiếp hơn nhiều. Theo Moody's Analytics, tăng trưởng kinh tế Mỹ sẽ giảm xuống, 7,8 triệu việc làm của Mỹ sẽ biến mất, lãi suất vay sẽ tăng vọt, tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng từ 3,4% hiện tại lên 8% và sự sụt giảm của thị trường chứng khoán sẽ xóa sạch 10.000 tỷ USD tài sản của các hộ gia đình.

Thị trường trái phiếu chính phủ Mỹ có thể bị phá vỡ

Thực tế là rất nhiều hoạt động tài chính xoay quanh niềm tin rằng nước Mỹ sẽ luôn thanh toán các nghĩa vụ tài chính của mình. Trái phiếu chính phủ Mỹ từ lâu đã được xem là một tài sản cực kỳ an toàn, là nền tảng của thương mại toàn cầu, được xây dựng trên nhiều thập kỷ tin tưởng vào Mỹ. Một vụ vỡ nợ có thể phá vỡ thị trường trái phiếu Kho bạc trị giá 24.000 tỷ USD, khiến thị trường tài chính đóng băng và gây ra một cuộc khủng hoảng toàn cầu.

Eswar Prasad, giáo sư chính sách thương mại tại Đại học Cornell và là thành viên cao cấp tại Viện Brookings cho biết: “Vỡ nợ sẽ là một sự kiện thảm khốc, với tác động không thể đoán trước nhưng có thể rất nghiêm trọng đối với thị trường tài chính toàn cầu và Mỹ”.

Mối đe dọa đã xuất hiện ngay khi nền kinh tế thế giới đang phải đối mặt với vô số các mối đe dọa - từ lạm phát và lãi suất gia tăng đến căng thẳng địa chính trị. Trên hết, nhiều quốc gia đã trở nên hoài nghi về vai trò to lớn của Mỹ trong thị trường tài chính toàn cầu.

Trong quá khứ, các nhà lãnh đạo chính trị của Mỹ thường tìm cách thoát khỏi bờ vực vỡ nợ và nâng trần nợ trước khi quá muộn. Quốc hội đã tăng, sửa đổi hoặc gia hạn giới hạn vay 78 lần kể từ năm 1960, lần gần đây nhất là vào năm 2021.

Tuy nhiên, vấn đề đã trở nên tồi tệ hơn. Sự chia rẽ đảng phái trong Quốc hội ngày càng lớn, trong khi nợ nần chồng chất sau nhiều năm tăng chi tiêu và cắt giảm thuế sâu. Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen đã cảnh báo rằng, chính phủ có thể vỡ nợ ngay sau ngày 1/6 nếu các nhà lập pháp không tăng hoặc đình chỉ trần nợ.

Cú sốc xuyên qua hệ thống tài chính

“Nếu độ tin cậy của trái phiếu Kho bạc bị suy giảm vì bất kỳ lý do gì, nó sẽ gây ra những làn sóng xung kích khắp hệ thống và có những hậu quả to lớn đối với tăng trưởng toàn cầu”, Maurice Obstfeld, cựu nhà kinh tế trưởng tại Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho biết.

Trái phiếu Kho bạc được sử dụng rộng rãi làm tài sản thế chấp cho các khoản vay, như một bộ đệm chống lại tổn thất của ngân hàng, như một thiên đường trú ẩn trong những thời điểm không chắc chắn tăng cao và là nơi để các ngân hàng trung ương dự trữ ngoại hối.

Với sự an toàn được nhận thức, các khoản nợ của chính phủ Mỹ - tín phiếu kho bạc, trái phiếu - có trọng số rủi ro bằng 0 theo quy định của ngân hàng quốc tế. Chính phủ nước ngoài và các nhà đầu tư tư nhân nắm giữ khoản nợ gần 7.600 tỷ USD, trong đó có khoảng 31% trái phiếu kho bạc Mỹ trên thị trường tài chính.

Bởi vì sự thống trị của đồng đô la đã khiến đồng tiền này trở thành tiền tệ toàn cầu trên thực tế kể từ Thế chiến II, Mỹ tương đối dễ dàng vay mượn và tài trợ cho khoản nợ chính phủ ngày càng tăng.

Nhưng nhu cầu cao đối với đô la cũng có xu hướng làm cho chúng trở nên có giá trị hơn so với các loại tiền tệ khác và điều đó gây ra một cái giá: Đồng đô la mạnh khiến hàng hóa Mỹ trở nên đắt hơn so với nước ngoài, khiến các nhà xuất khẩu Mỹ gặp bất lợi trong cạnh tranh. Đó là một trong những lý do tại sao Mỹ trải qua thâm hụt thương mại hàng năm kể từ năm 1975.

Nguồn dự trữ ngoại hối của các ngân hàng trung ương

Trong tất cả các khoản dự trữ ngoại hối do các ngân hàng trung ương trên thế giới nắm giữ, đồng đô la Mỹ chiếm 58%. Đứng thứ 2 là đồng euro: 20%. Theo IMF, đồng nhân dân tệ của Trung Quốc chỉ chiếm dưới 3%.

Các nhà nghiên cứu tại Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã tính toán rằng từ năm 1999 đến 2019, 96% giao dịch ở châu Mỹ được lập hóa đơn bằng đô la Mỹ. 74% thương mại ở châu Á cũng vậy. Ở những nơi khác ngoài châu Âu, đồng đô la chiếm 79% thương mại.

Tiền tệ của Mỹ đáng tin cậy đến mức các công ty ở một số nền kinh tế không ổn định đã yêu cầu thanh toán bằng đô la thay vì tiền tệ của quốc gia họ. Sri Lanka bị vùi dập bởi lạm phát và sự sụt giá chóng mặt của đồng nội tệ. Đầu năm nay, các chủ hàng đã từ chối giao 1.000 container thực phẩm cần thiết trừ khi họ được trả bằng đô la. Các lô hàng chất đống tại các bến cảng ở Colombo vì các nhà nhập khẩu không thể có đô la để thanh toán cho các nhà cung cấp.

Tương tự như vậy, nhiều cửa hàng và nhà hàng ở Lebanon, nơi lạm phát gia tăng và đồng tiền sụt giá, đang yêu cầu thanh toán bằng đô la. Năm 2000, Ecuador đã đối phó với một cuộc khủng hoảng kinh tế bằng cách thay thế đồng tiền của mình là đồng sucre bằng đô la - một quá trình được gọi là đô la hóa.

Nền tảng dành cho các nhà đầu tư

Ngay cả khi một cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ Mỹ, đồng đô la luôn là nơi trú ẩn an toàn cho các nhà đầu tư. Đó là những gì đã xảy ra vào cuối năm 2008, khi sự sụp đổ của thị trường bất động sản Mỹ đã lật đổ hàng trăm ngân hàng và công ty tài chính, bao gồm cả Lehman Brothers hùng mạnh một thời. Và sau đó giá trị của đồng đô la tăng vọt.

Clay Lowery, người giám sát nghiên cứu tại Viện Tài chính Quốc tế (IIF) cho biết: “Mặc dù vấn đề là ở Mỹ, nhưng đồng đô la vẫn là vua”.

Theo Mark Zandi, nếu Mỹ vượt qua giới hạn nợ mà không giải quyết được tranh chấp và Bộ Tài chính không trả được nợ, đồng đô la sẽ một lần nữa tăng giá, ít nhất là ban đầu, “vì sự không chắc chắn và nỗi sợ hãi. Các nhà đầu tư toàn cầu sẽ không biết phải đi đâu ngoại trừ nơi họ luôn đến khi có khủng hoảng và đó là Mỹ”.

Nhưng thị trường trái phiếu Kho bạc có thể sẽ bị tê liệt. Thay vào đó, các nhà đầu tư có thể chuyển tiền vào các quỹ thị trường tiền tệ của Mỹ hoặc trái phiếu của các tập đoàn hàng đầu của Mỹ. Cuối cùng, sự nghi ngờ ngày càng tăng sẽ làm giảm giá trị của đồng đô la và giữ nó ở mức thấp.

Chiến lược của chính phủ nếu trần nợ bị phá vỡ

Trong cuộc khủng hoảng trần nợ, Clay Lowery, cựu trợ lý Bộ trưởng Tài chính Mỹ trong cuộc khủng hoảng năm 2008 từng tưởng tượng rằng Mỹ sẽ tiếp tục trả lãi cho các trái chủ. Và Bộ Tài chính sẽ cố gắng thanh toán các nghĩa vụ khác của mình - chẳng hạn như cho các nhà thầu và người về hưu - theo thứ tự các hóa đơn đó đến hạn và khi có tiền.

Ví dụ, đối với các khoản thanh toán đến hạn vào ngày 3/6, Chính phủ có thể thanh toán vào ngày 5/6. Một số khác sẽ thanh toán vào 15/6. Đó là khi các khoản thu của chính phủ sẽ đổ vào khi nhiều người nộp thuế thực hiện các khoản thanh toán thuế như ước tính trong quý II.

“Chính phủ có thể sẽ bị kiện bởi những người không được trả tiền - bất kỳ ai sống nhờ trợ cấp như cựu chiến binh hoặc An sinh xã hội”, ông Lowery cho biết. Ngoài ra, các cơ quan xếp hạng có thể sẽ hạ xếp hạng nợ của Mỹ, ngay cả khi Bộ Tài chính tiếp tục trả lãi cho các trái chủ.

Đồng đô la, mặc dù vẫn chiếm ưu thế trên toàn cầu, nhưng đã mất điểm trong những năm gần đây khi nhiều ngân hàng, doanh nghiệp và nhà đầu tư chuyển sang sử dụng đồng euro và ở mức độ thấp hơn là đồng nhân dân tệ. Các quốc gia khác có xu hướng phẫn nộ về việc giá trị của đồng đô la có thể gây tổn hại cho tiền tệ và nền kinh tế của chính họ như thế nào.

Đồng đô la tăng giá có thể gây ra khủng hoảng ở nước ngoài bằng cách rút vốn đầu tư ra khỏi các quốc gia khác và làm tăng chi phí trả các khoản vay bằng đồng đô la của họ. Việc Mỹ sử dụng sức mạnh của đồng đô la để áp đặt các biện pháp trừng phạt tài chính đối với các quốc gia cũng bị một số quốc gia khác xem là khó chịu.

Tuy nhiên, cho đến nay, không có lựa chọn thay thế rõ ràng nào xuất hiện. Thị phần của đồng euro vẫn thua xa đồng đô la. Nhân dân tệ của Trung Quốc thậm chí còn hơn thế nữa và bị cản trở bởi việc Bắc Kinh từ chối để đồng tiền của mình được giao dịch tự do trên thị trường toàn cầu.

Nhưng sự kịch tính về trần nợ chắc chắn sẽ làm dấy lên câu hỏi về sức mạnh tài chính to lớn của Mỹ và đồng đô la trong thời gian tới.

Tin bài liên quan