Sau khi hệ thống công nghệ thông tin mới đưa vào vận hành thông suốt thì hoạt động giao dịch trong ngày sẽ được triển khai.

Sau khi hệ thống công nghệ thông tin mới đưa vào vận hành thông suốt thì hoạt động giao dịch trong ngày sẽ được triển khai.

Nền tảng pháp lý mới cho thị trường chứng khoán phát triển

0:00 / 0:00
0:00

(ĐTCK) Ông Phạm Hồng Sơn, Phó chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) chia sẻ, quan điểm xuyên suốt khi xây dựng chính sách cho thế hệ luật mới đã tạo cơ sở, nền tảng pháp lý cho giai đoạn phát triển mới của thị trường chứng khoán.

Đại dịch Covid-19 những tưởng sẽ khiến thị trường chứng khoán (TTCK) phản ứng theo chiều hướng suy giảm mạnh, nhưng thực tế cho thấy thị trường đã hồi phục hoàn toàn và đang tiến đến nhưng mức điểm cao hơn. Theo ông, những yếu tố nào giúp TTCK hấp dẫn trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế năm nay ở mức thấp vì đại dịch?

Trong những tháng đầu năm, TTCK Việt Nam đã chứng kiến những đợt giảm điểm mạnh do tác động của dịch bệnh Covid-19, kết thúc quý I, chỉ số VN-Index giảm 33% so với cuối năm 2019.

Tuy nhiên, từ quý II đến nay, mặc dù dịch Covid-19 quay lại đợt 2, nhưng TTCK vẫn hồi phục tích cực. Điều này bắt nguồn từ sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Chính phủ trong việc phòng ngừa dịch bệnh và phát triển kinh tế.

Việt Nam đã kiểm soát tốt dịch bệnh, dẫn đến những thiệt hại về người và tài sản được giảm thiểu, nền kinh tế được phục hồi. Bên cạnh đó, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành các chính sách hỗ trợ thị trường, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp như miễn giảm phí, lệ phí, giá dịch vụ trên TTCK.

Ngoài ra, nguyên nhân TTCK có sự khởi sắc trong thời gian qua là do tình hình kinh tế vĩ mô trong nước trong 3 quý đầu năm có nhiều điểm sáng, xuất khẩu khả quan, thặng dư thương mại cao kỷ lục, đầu tư công cải thiện tích cực, lạm phát được kiểm soát...

Triển vọng kinh tế trong quý IV được các tổ chức quốc tế đánh giá cao như IMF, WB, ADB dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng từ 1,8 - 2,8% trong năm 2020.

Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) được ký kết và có hiệu lực từ 1/8/2020, có tác động tích cực đến một số ngành như dệt may, da giày, nông thuỷ sản, đồ gỗ…

Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết trong 9 tháng đầu năm có dấu hiệu phục hồi rõ nét, số công ty có lãi giảm nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái nhưng chiếm 86%.

Một số yếu tố khác hỗ trợ như thị trường Kuwait được MSCI nâng hạng từ cận biên lên mới nổi, theo đó, Việt Nam là quốc gia hưởng lợi lớn nhất trong đợt phân loại lại thị trường trong tháng 11/2020, có thể sẽ thu hút dòng vốn từ các quỹ theo dõi chỉ số cận biên vào TTCK Việt Nam. Liên quan đến nhà đầu tư nước ngoài, khối ngoại vẫn có động thái bán ròng trên TTCK Việt Nam nhưng tốc độ đã chậm lại so với những tháng diễn ra dịch bệnh Covid-19 đợt 1.

Đáng chú ý, các kênh đầu tư khác như gửi tiết kiệm, đầu tư vàng trở nên kém hấp dẫn trong thời gian vừa qua do các ngân hàng giảm lãi suất và đà tăng của giá vàng chững lại, dẫn đến dòng tiền nhàn rỗi chọn kênh đầu tư chứng khoán nhiều hơn, làm tăng sức mua trên TTCK.

Bên cạnh những yếu tố nội tại trong nước, sự phục hồi của các nền kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc và châu Âu trong quý III là một trong những động lực giúp TTCK Việt Nam tăng điểm và thu hút nhà đầu tư.

Từ 1/1/2021, Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư đồng thời có hiệu lực thi hành. Một trong những điểm được nhiều chủ thể chờ đợi là các luật và văn bản hướng dẫn sẽ nới không gian cho vốn ngoại chảy mạnh hơn vào doanh nghiệp, vào TTCK Việt Nam. Ông có thể chia sẻ những điểm mới nhất về vấn đề này, nhìn từ các văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán?

Trong quá trình làm Luật, các cơ quan quản lý đã có sự trao đổi, phối hợp trong các quy định về đầu tư nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng, góp phần tích cực khơi thông dòng vốn ngoại cho nền kinh tế. Chúng ta phải thực hiện theo các điều ước quốc tế, các hiệp định đã ký, đồng thời để thu hút dòng vốn ngoại vào TTCK Việt Nam.

Liên quan đến nội dung thu hút vốn nước ngoài trên TTCK, quan điểm của cơ quan quản lý khi xây dựng chính sách là việc nới lỏng tỷ lệ sở hữu đối với nhà đầu tư nước ngoài (room) cần chủ trương chung về thu hút vốn nước ngoài và phù hợp với lộ trình phát triển kinh tế của Việt Nam.

Ảnh tác giả

Chính sách bền vững để thu hút dòng vốn nước ngoài là tạo hàng hóa có chất lượng, quy mô vốn lớn đáp ứng nhu cầu đầu tư chiến lược, tạo môi trường đầu tư thông thoáng...

Ông Phạm Hồng Sơn, Phó chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước

Ở các nước khác, kể cả các quốc gia phát triển thì các ngành chiến lược và ngành ảnh hưởng tới an ninh quốc gia vẫn chịu hạn chế về tỷ lệ sở hữu nước ngoài.

Vì vậy, chúng ta cần xem xét đến các yếu tố khác để thu hút thêm dòng vốn nước ngoài mà không chỉ đặt trọng tâm vào việc nới lỏng room.

Chính sách bền vững để thu hút dòng vốn nước ngoài là tạo hàng hóa có chất lượng, quy mô vốn lớn đáp ứng nhu cầu đầu tư chiến lược, tạo môi trường đầu tư thông thoáng để tăng khả năng tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài.

Các văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán đã chú trọng sửa đổi các chính sách nhằm cải thiện chất lượng nguồn cung như nâng cao điều kiện công ty đại chúng về vốn điều lệ và sửa đổi, bổ sung điều kiện về số lượng, cơ cấu cổ đông; nâng cao tiêu chí niêm yết; sửa đổi một số quy định về nguyên tắc quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng cho phù hợp với nguyên tắc quản trị công ty theo tiêu chuẩn quốc tế, minh bạch thông tin về sở hữu nước ngoài.

Ngoài ra, các chính sách liên quan đến giao dịch và thanh toán bù trừ sẽ có nhiều thay đổi, tạo cho các nhà đầu tư có nhiều lợi ích hơn khi tham gia giao dịch trên TTCK Việt Nam.

Cụ thể, sau khi hệ thống theo cơ chế đối tác bù trừ trung tâm (CCP) trên thị trường cơ sở đi vào vận hành, trên nền tảng công nghệ mới, nhà đầu tư không cần ký quỹ 100% khi mua chứng khoán mà chỉ cần ký quỹ một tỷ lệ nhất định, tương tự như trên TTCK phái sinh.

Đồng thời, triển khai một số loại lệnh mới, sửa đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến cơ chế giao dịch trong ngày, bổ sung công cụ ngắt mạch TTCK.

Sau khi hệ thống công nghệ thông tin mới đưa vào vận hành thông suốt thì hoạt động giao dịch trong ngày sẽ được phép triển khai.

Chúng tôi cho rằng, quan điểm xuyên suốt khi xây dựng chính sách cho thế hệ Luật mới đã tạo cơ sở, nền tảng pháp lý cho giai đoạn phát triển mới của TTCK, góp phần cải thiện chất lượng nguồn cung, giúp nâng cao năng lực, chất lượng hoạt động của các chủ thể tham gia thị trường, tăng cường tính công khai, minh bạch, bảo đảm thị trường hoạt động an toàn, hiệu quả.

Qua đó, khuyến khích mạnh mẽ tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tham gia đầu tư và hoạt động trên TTCK, đồng thời khẳng định TTCK Việt Nam đang nỗ lực hoàn thiện để tạo môi trường đầu tư ngày càng thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.

Năm nay, sự tham gia mạnh mẽ của các nhà đầu tư mới đã đưa số tài khoản đầu tư chứng khoán vượt 2,6 triệu. Trong thời gian tới, UBCK có giải pháp gì để tiếp tục thu hút nhà đầu tư đến với TTCK và ở lại đầu tư lâu dài với kênh này?

Tính đến cuối tháng 9/2020, số lượng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư đạt gần 2,63 triệu, tăng hơn 254.000 tài khoản so với mức tăng 193.000 tài khoản của năm 2019. Số lượng tài khoản giao dịch mới tăng bình quân tháng đạt khoảng 28.300.

Với mức tăng này, dự báo hết năm 2020, số lượng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư đạt 2,72 triệu, chưa đạt được mục tiêu 3% dân số vào năm 2020 đã đề ra tại Đề án cơ cấu lại TTCK giai đoạn 2018 - 2020 và định hướng đến năm 2025. Tuy nhiên, điều quan trọng mà cơ quan quản lý hướng tới là nâng cao chất lượng nhà đầu tư.

Trong những năm qua, mặc dù số lượng nhà đầu tư cá nhân vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhưng tốc độ tăng trưởng số lượng tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư tổ chức lớn hơn gấp rưỡi so với mức tăng trưởng chung của tổng tài khoản.

Bên cạnh đó, trình độ hiểu biết của nhà đầu tư được nâng lên đáng kể, có tâm lý vững vàng hơn, thể hiện rõ nét trước những tác động mạnh mẽ của đại dịch Covid-19 trong thời gian vừa qua.

Trong thời gian tới, UBCK sẽ tiếp tục triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để thu hút nhà đầu tư tham gia nhiều hơn nữa vào TTCK, tập trung vào một số giải pháp sau.

Một là, đẩy mạnh công tác đào tạo, tập huấn, phổ cập kiến thức và thông tin tuyên truyền cho công chúng đầu tư nhằm nâng cao nhận thức xã hội về chứng khoán và TTCK.

Hai là, đa dạng cơ sở hàng hóa trên thị trường, trong đó thúc đẩy kế hoạch cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước theo danh mục đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; thực hiện kiểm tra, xử lý kịp thời các doanh nghiệp không tuân thủ quy định về việc niêm yết/đăng ký giao dịch sau khi đã cổ phần hóa; phát triển thêm các chỉ số cơ sở để làm tài sản cơ sở cho TTCK phái sinh; triển khai các sản phẩm trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư.

Đồng thời, nâng cao tính minh bạch và chất lượng hàng hóa thông qua việc tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn huy động trên TTCK; thực hiện phân bảng cổ phiếu niêm yết, nâng cao điều kiện niêm yết và điều kiện duy trì niêm yết đối với cổ phiếu trong từng bảng; tăng cường kiểm tra chất lượng báo cáo tài chính và hoạt động kiểm toán của các đơn vị kiểm toán, kiểm toán viên; tăng cường đào tạo, tuyên truyền về quản trị công ty, chương trình đánh giá xếp loại quản trị công ty.

Ba là, triển khai các giải pháp nâng cao tính thanh khoản cho TTCK như triển khai các loại lệnh mới trên thị trường cổ phiếu, triển khai hoạt động giao dịch trong ngày phù hợp với điều kiện của thị trường, áp dụng cơ chế ngắt mạch tự động trong trường hợp thị trường có biến động mạnh, linh hoạt trong việc áp dụng ký quỹ trước giao dịch, tăng thời gian giao dịch áp dụng cho một số giao dịch đặc biệt, từng bước phát triển hệ thống các nhà tạo lập thị trường với đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ để thực hiện chức năng tạo lập thị trường trên cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp theo thông lệ quốc tế. Giải pháp này sẽ được triển khai đồng bộ trên cơ sở vận hành ổn định hệ thống công nghệ thông tin mới trên TTCK.

TTCK năm 2020 chứng kiến sự bùng nổ của kênh gọi vốn qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Liệu có thể kỳ vọng năm tới, Việt Nam sẽ có thị trường trái phiếu doanh nghiệp có tổ chức và có công ty định mức tín nhiệm hoạt động hay không?

Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp tăng nhanh, đạt 6,29% GDP vào cuối năm 2017 và 10,9% GDP vào cuối tháng 6/2020, vượt mục tiêu 7% GDP đến năm 2020 theo Lộ trình phát triển thị trường trái phiếu của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định 1191/QĐ-TTg.

Tốc độ tăng trưởng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt trên 40% trong giai đoạn từ năm 2017 đến nay cho thấy các doanh nghiệp đã từng bước đa dạng hóa kênh huy động vốn, đặc biệt là vốn trung, dài hạn thông qua phát hành trái phiếu bên cạnh nguồn vốn tín dụng ngân hàng, phù hợp với định hướng của Chính phủ về phát triển thị trường vốn, giảm áp lực về cung ứng vốn trung và dài hạn của hệ thống ngân hàng thương mại.

Luật Chứng khoán năm 2019 và Luật Doanh nghiệp sửa đổi sẽ có hiệu lực thi hành từ đầu năm 2021, trong đó có các quy định mới về đối tượng tham gia mua và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp, điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

Trước sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong thời gian qua, Bộ Tài chính đang soạn thảo để trình Chính phủ Nghị định về phát hành và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp, thay thế Nghị định 163/2018/NĐ-CP nhằm mục tiêu phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp an toàn, bền vững, nâng cao tính công khai, minh bạch trong huy động vốn trái phiếu, tăng khả năng quản lý, giám sát, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.

Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp huy động vốn theo phương thức phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng và niêm yết, giao dịch trên trái phiếu doanh nghiệp.

Định hướng tổ chức thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong thời gian tới được chia thành hai thị trường, bao gồm thị trường trái phiếu niêm yết và thị trường trái phiếu phát hành riêng lẻ.

Thị trường trái phiếu niêm yết dành cho việc giao dịch các loại trái phiếu phát hành ra công chúng, thị trường trái phiếu phát hành riêng lẻ dành cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp.

Trái phiếu giao dịch trên cả hai thị trường phải được đăng ký, lưu ký tập trung tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán trước khi giao dịch.

Các trái phiếu có phải thực hiện xếp hạng tín nhiệm hay không?

Việc sử dụng dịch vụ xếp hạng tín nhiệm góp phần nâng cao tính công khai, minh bạch, khuyến khích nhà đầu tư mua trái phiếu, thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp.

Đối với hoạt động phát hành trái phiếu ra công chúng, Luật Chứng khoán đã chuẩn hóa điều kiện, trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán phù hợp với thông lệ quốc tế, trong đó bổ sung điều kiện phải có kết quả xếp hạng tín nhiệm đối với tổ chức phát hành trái phiếu theo quy định của Chính phủ về các trường hợp phải xếp hạng tín nhiệm và thời điểm áp dụng.

Đối với phát hành trái phiếu riêng lẻ, dự thảo Nghị định về phát hành và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp đã có cơ chế khuyến khích các tổ chức phát hành sử dụng dịch vụ xếp hạng tín nhiệm.

Nhìn chung, những quy định này đang khuyến khích việc thành lập và hoạt động của các công ty định mức tín nhiệm. Hiện nay, có 2 công ty xếp hạng tín nhiệm trong nước đã được Bộ Tài chính cấp phép hoạt động.

Để thúc đẩy các doanh nghiệp niêm yết, doanh nghiệp đại chúng minh bạch và quản trị tốt hơn, UBCK đã phối hợp với Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) ban hành Bộ nguyên tắc quản trị công ty theo thông lệ tốt. UBCK sẽ có hành động gì tiếp theo để đẩy mạnh hoạt động này?

Năm 2019, UBCK đã phối hợp với IFC ban hành Bộ nguyên tắc quản trị công ty theo thông lệ tốt nhất để thúc đẩy các doanh nghiệp niêm yết, doanh nghiệp đại chúng minh bạch hơn và quản trị tốt hơn.

Đến thời điểm hiện tại, để tiếp tục thúc đẩy tính minh bạch và quản trị hiệu quả của các doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán, UBCK đã dự thảo Nghị định quy định về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng hướng dẫn Luật Chứng khoán

Trong đó, nội dung quy định về việc chủ tịch hội đồng quản trị không được kiêm nhiệm chức danh giám đốc (tổng giám đốc) của cùng một công ty đại chúng được giữ nguyên theo nội dung quy định tại Nghị định số 71/2017/NĐ-CP do số lượng công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE) tách bạch 2 chức danh chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc khá cao - có 291/377 công ty niêm yết đã thực hiện tách bạch 2 chức danh này - theo Báo cáo tình hình quản trị công ty năm 2019, đồng thời tuân thủ quy định tại Khoản 2, Điều 155, Luật Doanh nghiệp 2020 là “chủ tịch hội đồng quản trị công ty đại chúng và công ty cổ phần quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 88 của Luật này không được kiêm giám đốc hoặc tổng giám đốc”.

Về thành viên hội đồng quản trị độc lập, theo thống kê của HOSE và Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX), tổng số công ty niêm yết đảm bảo tối thiểu 1/3 tổng số thành viên hội đồng quản trị là thành viên độc lập tại HOSE hiện chiếm tỷ lệ 52,39% và tại HNX chiếm tỷ lệ 58,6%; tổng số công ty đăng ký giao dịch đảm bảo tối thiểu 1/5 tổng số thành viên hội đồng quản trị là thành viên độc lập chiếm tỷ lệ 58,52%.

Do vậy, để đảm bảo tính khả thi trong thực hiện quy định, UBCK đề xuất chỉnh sửa quy định về cơ cấu thành viên độc lập hội đồng quản trị của công ty niêm yết và công ty đại chúng quy mô lớn chưa niêm yết như sau.

Số lượng thành viên độc lập hội đồng quản trị của công ty niêm yết, công ty đại chúng quy mô lớn chưa niêm yết phải đảm bảo: có tối thiểu một thành viên độc lập trong trường hợp công ty có số thành viên hội đồng quản trị từ 3 - 5 thành viên; có tối thiểu hai 2 thành viên độc lập trong trường hợp công ty có số thành viên hội đồng quản trị từ 6 - 8 thành viên; có tối thiểu 3 thành viên độc lập trong trường hợp công ty có số thành viên hội đồng quản trị từ 9 - 11 thành viên (Khoản 4, Điều 10 dự thảo Nghị định).

Về uỷ ban kiểm toán, Luật Doanh nghiệp 2020 chưa có quy định cụ thể về tổ chức này đối với các công ty tổ chức và hoạt động theo mô hình không có ban kiểm soát.

Dự thảo Nghị định căn cứ theo Bộ nguyên tắc quản trị công ty và thông lệ quốc tế bổ sung một số nội dung quy định về thành phần; quyền và nghĩa vụ, báo cáo hoạt động của thành viên độc lập hội đồng quản trị trong uỷ ban kiểm toán tại cuộc họp đại hội đồng cổ đông thường niên để làm cơ sở cho các công ty đại chúng có căn cứ thực hiện.

Tin bài liên quan